phân tích đây thôn vĩ dạ hàn mặc tử. phân tích bài đây thôn vĩ dạ hàn mạc tử. đặc điểm loại hình của tiếng việt 1 ví dụ 1 sao anh không về chơi thôn vĩ đây thôn vĩ dạ hàn mặc tử. nét chung giữa nội dung và nghệ thuật của 3 tác phẩm đây thôn vĩ dạ tràng dang từ
Hàn Mặc Tử là một thi nhân! Ngôn ngữ với Hàn Mặc Tử không phải là gỗ đá như đối với nhà điêu khắc, cũng không phải là mầu vẽ như đối với người họa sĩ, với Hàn ngôn ngữ là một công cụ hơn là một vật liệu. Con người chứa bao la những nỗi niềm, những tín
Chuyên đề. GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH. TRONG GIỜ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN "ĐÂY THÔN VĨ DẠ". CỦA HÀN MẶC TỬ. 1. Hoàn cảnh nảy sinh. 1.1. Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta, khi yếu tố con người được. coi trọng về tiềm năng và trí tuệ, cùng với sức mạnh tri
Ngoài ra còn có 2 câu thơ rất tình cảm mà Hàn thi sĩ viết cho nàng Cúc: Muốn ôm hồn Cúc ở trong sương. Hình ảnh nàng Cúc hiện lên trong thơ Hàn Mặc Tử thường huyền ảo như khói, như sương, tương tự như trong bài thơ nổi tiếng nhất của ông: Ở Đây Thôn Vỹ Dạ (sau này
Chuyên đề văn học. “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử & “Tràng giang”. của Huy Cận & “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của. Hoàng Phủ Ngọc Tường. ĐỀ RA. * Câu 1. Phân tích bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử: Sao anh không về chơi thôn Vĩ. Nhìn nắng hàng cau
Vay Tiền Nhanh Ggads. Hàn Mặc Tử- Hồn thơ bí ẩn và phức tạp nhất trong phong trào Thơ Mới Trong các nhà thơ mới, Hàn Mặc Tử lạ nhất, phức tạp nhất, bất hạnh nhất, bí ẩn nhất. Như ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời… Là sản phẩm của nguồn thơ điên bằng đau thương đặc biệt, Đây thôn Vĩ Dọ là lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu tuyệt vọng. Bên dưới mỗi hàng chữ sáng tươi là cả một mối u hoài. Tuy không có những tiếng rên la, những hình ảnh kì dị, ma quái, nhưng mạch liên tưởng toàn bài cũng rất lạ lùng, đứt đoạn, phi logic, cóc nhảy ngoại cảnh – tâm cảnh, tươi sáng- âm u, hi vọng – thất vọng kết nối tương phản. Đó là hai phía của một khối u hoài uẩn khúc. Khổ đầu ước ao thầm kín ngấm ngầm bên trong lại cất lên như lời mời mọc từ bên ngoài, hoài niệm âm u lại mang gương mặt sáng sủa, khát khao, rạo rực. Khổ 2 ước mong khẩn thiết dâng lên hoá thành hoài vọng chới với, nghẹn ngào. Khổ 3 mong ngóng vừa ló rạng hoá thành nỗi hoài nghi. Liên tưởng điên – phi lôgic tạo ra âm hưởng nhất quán, vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. Tất cả xuất phát từ tình yêu tuyệt vọng – mặc cảm sâu xa của Hàn Mặc tử. […] Trong bệnh tật, tâm hồn Hàn hình thành hai thế giới trong này và ngoài kia phân định nghiệt ngã, cách nhau bằng cả tầm tuyệt vọng. Ngoài kia là mùa xuân, thắm tươi, trăng, nhạc, ánh sáng, hạnh phúc, thiên đường, hi vọng,… Trong này chẳng có mùa, là đêm tối, địa ngục, khổ hạnh, âm u, mờ nhân ảnh, lãnh cung… trong này chỉ còn về lại được ngoài kia bằng ước ao thầm lén, khắc khoải hi vọng và tuyệt vọng mà thôi! Tấm thiệp của Hoàng Cúc đã đánh thức khát vọng về cái ngoài kia. Thôn Vĩ Dạ là địa chỉ khởi đầu của ngoài kia trong hồn Tử. Khát vọng về thăm Vĩ Dạ của Tử cũng là khát vọng về ngoài kia. Vườn xa, thuyền xa, đường xa hợp thành thế giới ngoài kia đối lập với ở đây — trong này. Sự tương phản giữa hai miền không gian không chỉ là mặc cảm của con người đang sắp chia lìa cuộc đời mà còn là mặc cảm của thi sĩ đang phải lìa xa cái đẹp mà anh đang tôn thờ, chiêm ngưỡng. Cái đẹp, theo quan niệm của Tử là thanh khiết, thanh tú, trinh nguyên, vẻ đẹp của vườn, nắng, trăng, thuyền, khách đường xa là biểu hiện cụ thể của vẻ đẹp ấy. Và mặc cảm chia lìa là mặc cảm tuyệt vọng khiến cho nó trở nên khắc khoải, da diết. Câu hỏi mở đầu là lời Tử phân thân để hỏi chính mình. Ba câu sau tả vườn. Nắng tinh khiết thanh tân lan toả trên những hàng cau, thân cau, lá cau, biến cả Vườn thành viên ngọc lớn. Vườn toả vào không gian những ánh xanh của ngọc thanh tú và cao sang. Chữ ai chuyển tải cảm giác xa xót, thực tại xa vời, tồn tại mong manh ở ngoài tầm với, thuộc thế giới ngoài kia. Từ quá chỉ mức độ, là tiếng kêu ngạc nhiên, ngỡ ngàng như chợt nhận ra vẻ đẹp của vườn trong khoảnh khắc hiếm hoi ấy. Mặt chữ điền là mặt người thôn Vĩ hay người trở về thôn Vĩ? Nếu là mặt người thôn Vĩ thì sẽ là mặt phụ nữ vì một người đàn ông thôn Vĩ trở về không phải để ngắm khuôn mặt đàn ông. Nếu là mặt người trở về thôn Vĩ thì chỉ có thể là khuôn mặt của Tử tự họạ chân dung của mình đầy kiêu hãnh và vơ vào. Có thể hiểu cả hai cách như trên. Qua lăng kính chia lìa, tuyệt vọng tình yêu, những cảnh vật đơn sơ cũng trở nên vô cùng lộng lẫy. Đó là thiên đường trần gian nhưng không thuộc về mình nữa. Về thôn Vĩ là việc bình thường nhưng với Tử lại quá tầm tay với, thành hạnh phúc ngoài tầm tay. Khổ 2 không chỉ tả dòng sông Hương mà dòng sông nào đó thể hiện mặc cảm chia lìa, phiêu tán. Tất cả như đang bỏ đi, ngang trái trớ trêu. Chữ lay rất hay. Từ câu ca dao hiện về trong hồn Tử chăng? Ai về trồng dứa qua truông Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em! Hay là Lá ngô lay ở bờ sông, Bờ sông vẫn gió người không thấy về. Trúc Thông Sông trăng và thuyền trăng huyền ảo càng thêm huyền ảo. Nhưng đó cũng mới là vẻ đẹp bề nổi, dễ thấy. Chữ kịp mới mang bi kịch tâm hồn nhà thơ. Mặc cảm thân phận trong hiện tại ngắn ngủi, sống chạy đua với thời gian, từng ngày, từng khắc. Cuộc chia li vĩnh viễn đang tới gần. Mong mỏi, đau thương và tuyệt vọng. Khổ 3 khắc khoải hoá thân thành nhịp điệu. Gấp gáp hơn, khẩn khoản hơn. Hình ảnh người con gái áo trắng tinh khiết được Tử tôn thờ là hiện thân của thế giới ngoài kia với sắc áo trắng nhoà nhạt đến mức nhìn không ra. Đến đây, Tử mới trở về nơi tồn tại của mình, với lãnh cung chia lìa bất hạnh của mình. Cuộc đời ngoài kia vẫn thắm sắc và vẫn cách ở đây một tầm tuyệt vọng, vẫn cách xa một tầm tay với. Chỉ có cái tình kia là sợi dây duy nhất níu Tử với trần gian. Mà xem ra cái tình ấy cũng mong manh làm sao! Xem thêm Soạn bài Đây thôn Vĩ Dạ Ngữ văn 11
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của tác giả Hàn Mặc Tử là bức tranh toàn bích về cảnh vật và con người,là bức tranh đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người. Để giúp bạn hiểu rõ ràng và sâu sắc hơn về các dạng đề đọc hiểu liên quan đến bài thơ, cùng Đọc Tài Liệu tham khảo soạn bài Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mạc Tử cùng một số đề đọc hiểu dưới đây và xem gợi ý đáp án của từng đề bạn nhéĐề đọc hiểu Đây thôn Vĩ DạĐề số 1Đọc đoạn trích và trả lời câu hỏiSao anh không về chơi thôn Vĩ?Nhìn nắng hàng cau nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điềnTrích Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc TửĐọc đoạn thơ trên và trả lời các câu hỏi sauCâu 1 Giới thiệu đôi nét về tác giảCâu 2 Giải thích ý nghĩa câu hỏi mở đầu bài thơ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”.Câu 3 Xác định phép điệp trong đoạn thơ và nêu hiệu quả nghệ thuật mà nó mang 4 Cảm nhận về tình cảm của nhà thơ với mảnh đất và con người thôn VĩĐáp án đề đọc hiểu Đây thôn Vĩ Dạ số 1Câu 1- Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22-9-1912 trong một gia đình viên chức nghèo theo đạo Thiên Chúa ở Lệ Mĩ, Đồng Hới, sau chuyển vào sống ở Quy Hàn Mặc Tử làm thơ từ năm mười sáu tuổi, với nhiều bút danh - Minh Duệ Thi, Phong Trần, Lệ Thanh, Hàn Mặc Tử, Hàn Mạc Tử...- Sự nghiệp thơ ông tuy không thật đồ sộ nhưng đã để lại dấu ấn khó phai mờ trong tâm trí người Việt yêu 2 “Sao anh không về chơi thôn Vĩ? là một câu hỏi tu từ mang nhiều ý Ý nghĩa biểu đạt Sao anh không về chơi thôn Vĩ? vừa là câu hỏi vừa là lời mời gọi tha thiết của cô gái thôn Vĩ với nhân vật trữ Ý nghĩa biểu cảmGợi cảm giác như lời trách nhẹ nhàng và cũng là lời mời gọi tha thiết lời nhà thơ tự trách, tự hỏi mình; lời ƣớc ao thầm kín của người đi xa được về lại thôn Vĩ.Hai tiếng về chơi bộc lộ sắc thái tự nhiên, thân mật, chân hỏi là duyên cớ để khơi dậy trong tâm hồn nhà thơ bao kỉ niệm sâu sắc, bao hình ảnh đẹp đẽ, đáng yêu của xứ Huế, trước hết là Vĩ Dạ - nơi có người mà nhà thơ thương mến và đẹp nhất là cảnh thôn Vĩ trong ánh bình 3 Điệp từ “Nắng”- Như một tiếng ngân khiến không gian tràn đầy ánh sáng. Nắng ở đây là nắng mới, thứ nắng ban mai, tinh khiết đầu tiên trong ngày trên những thân cau còn ướt đẫm sương Hiệu quả nghệ thuật Điệp từ nắng cùng cụm hình ảnh tiểu đối nắng hàng cau - nắng mới lên khiến ta cảm giác ánh sáng như đang đầy dần trong khu vườn thôn Vĩ không gian 4 Tình cảm của nhà thơ với mảnh đất và con người thôn Vĩ- 4 câu thơ đã đặc tả vẻ đẹp của phong cảnh và con người xứ Huế sinh động tràn đầy sức sống, cảnh thì đẹp dáng, đẹp màu, người thì đẹp lòng, đẹp Lời thơ tha thiết chứa đựng cả 1 tình yêu, 1 niềm khao khát. Có lẽ nhà thơ hiểu rất rõ hoàn cảnh thực tại đầy đau đớn của mình, hiểu rằng cảnh và người thôn Vĩ mãi mãi chỉ là trong mộng mà Tuy nhiên, buồn mà không tuyệt vọng, đau khổ mà vẫn ước mơ, hồn thơ dạt dào sức sống ấy chỉ hồi tưởng 1 cuộc gặp gỡ trong tâm linh mà niềm vui như thấm vào đường nét của cảnh vật, nghe như có tiếng thì thầm reo vui của cuộc hội ngộ đích thực trong hiện thể bạn quan tâm Phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mạc TửĐề số 2Đọc đoạn trích và trả lời câu hỏiGió theo lối gió, mây đường mây,Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,Có chở trăng về kịp tối nay?Trích Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mạc TửCâu 1 Đoạn trích trên được trích từ bài thơ nào? Nêu hoàn cảnh sáng tác của bài 2 Nêu đại ý của đoạn 3 Giải thích ý nghĩa câu thơ "Gió theo lối gió, mây đường mây,"Câu 4 Biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn trích là gì? Nêu tác dụng của biện pháp tu từ án đề đọc hiểu Đây thôn Vĩ Dạ số 2Câu 1 Đoạn trích trên được trích từ bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Hoàn cảnh sáng tác Đây thôn Vĩ Dạ là một trong số ít những bài thơ hay nhất viết về Huế, về Vĩ Dạ. Tác phẩm ban đầu có tên Ở đây thôn Vĩ Dạ, sáng tác năm 1938, in trong tập Thơ 2 Đại ý của đoạn trích bức tranh thiên nhiên xứ Huế bình yên, thơ mộng và niềm đau cô lẻ, chia 3 Ý nghĩa câu thơ "Gió theo lối gió, mây đường mây,"- Ý nghĩa biểu đạt tả thực vẻ êm đềm, nhịp điệu khoan thai của xứ Huế gió mây nhè nhẹ bay đi.- Ý nghĩa biểu cảm nhịp thơ 4/3 và sự vận động ngƣợc chiều của hình ảnh thơ gió, mây gợi sự chia li, tan tác, để lại sự trống vắng của không gian, gợi tâm trạng u buồn, cô đơn của nhà 4- Biện pháp tu từ được sử dụng trong hình ảnh dòng nước buồn thiu nhân Tác dụng miêu tả sinh động hình ảnh dòng nƣớc chảy lững lờ, nhưng dường như thiên nhiên cảnh vật cũng nhuốm màu tâm trạng con người. Hình ảnh đẹp nhưng cũng thật lạnh lẽo, phảng phất nỗi buồn, nỗi cô quạnh trong lòng thi số 3Đọc đoạn trích dưới đây và trả lời câu hỏiMơ khách đường xa, khách đường xaÁo em trắng quá nhìn không ra...Ở đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà?Trích Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mạc TửCâu 1 Đoạn trích trên thuộc tác phẩm nào? Nêu xuất xứ của tác 2 Đại ý của đoạn trích là gì?Câu 3 Cách sử dụng điệp ngữ của tác giả trong câu thơ "Mơ khách đường xa, khách đường xa" gợi lên hình ảnh gì?Câu 4 "Ở đây" có thể được hiểu theo những cách suy nghĩ nào?Đáp án đề đọc hiểu Đây thôn Vĩ Dạ số 3Câu 1 Đoạn trích trên được trích trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử- Xuất xứ của tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ ban đầu có tên là Ở đây thôn Vĩ Dạ, sáng tác năm 1938, in trong tập Thơ Điên sau tập thơ này đổi tên thành Đau thương.Câu 2 Đại ý đoạn trích nỗi niềm thôn Vĩ của nhân vật trữ 3- Điệp ngữ khách đường xa khiến hình ảnh khách người thôn Vĩ trong mộng tưởng mơ càng xa vời. Lúc này Hàn Mặc Tử đang điều trị ở Qui Nhơn còn người thôn Vĩ hẳn nhiên ở xa vời trước hết được gợi lên bởi khoảng cách của thời gian quá khứ - hiện tại và không gian thôn Vĩ xứ Huế - nơi Hàn Mặc Tử đang điều trị bệnh ở Qui Nhơn.Sự xa vời còn được tạo nên bởi khoảng cách giữa tình yêu trong quá khứ chưa một lời ước hẹn với hiện tại Hàn Mặc Tử đang mắc bệnh hiểm nghèo và tương lai mờ Từ mơ đứng đầu câu thơ kết hợp với các hình ảnh áo em trắng quá, sương khói mờ nhân ảnh mang lại cho lời thơ vẻ đẹp huyền ảo, hư hoặc, làm nhòa mờ hình ảnh em, cô gái thôn Vĩ mà nhà thơ đang cố mơ 4 "Ở đây" có thể được hiểu theo những cách suy nghĩ là- Ở đây có thể là ở thôn Vĩ, khi Hàn Mặc Tử nhìn bức bƣu ảnh nhƣng cũng có thể là ở Qui Nhơn, nơi Hàn Mặc Tử đang điều trị bệnh Có thể hiểu câu thơ theo hai nghĩaVề nghĩa thực Xứ Huế nắng nhiều, mưa nhiều cũng nhiều sương khói, sương khói làm tăng thêm vẻ hư ảo, mộng mơ của Huế nhƣng sƣơng khói đều màu trắng, áo em cũng màu trắng thì chỉ thấy bóng người thấp thoáng, mờ nghĩa bóng Cái sương khói làm mờ cả bóng người ấy phải chăng tượng trưng cho cái huyền hoặc của cuộc đời đang làm cho tình người trở nên khó hiểu, xa vời?Gợi ý thêm cho bạnPhân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc TửSơ đồ tư duy Đây thôn Vĩ Dạ-Trên đây là một số đề đọc hiểu Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử mà Đọc tài liệu đã sưu tầm được, mong rằng sẽ giúp ích cho các em trong quá trình ôn tập tại nhà!
Chuyên đềGIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINHTRONG GIỜ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN "ĐÂY THÔN VĨ DẠ"CỦA HÀN MẶC TỬ1. Hoàn cảnh nảy Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta, khi yếu tố con người đượccoi trọng về tiềm năng và trí tuệ, cùng với sức mạnh tri thức thì nhân cách củacon người càng được đề cao và phát huy mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực xã nay, nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới giáo dục là nâng cao chất lượng giáodục toàn diện trong nhà trường, nhằm đảm bảo tính cân đối giữa dạy chữ và dạyngười. Một nhà hiền triết đã nói "Khoa học mà không có hành vi đạo đức thìchỉ là sự tàn lụi của linh hồn", mà "hành vi đạo đức" chính là kĩ năng sống củahọc sinh. Vì vậy, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là một nội dung quan trọngvà thiết thực trong chiến lược giáo dục toàn Hiện nay, tình trạng bạo lực học đường ngày càng gia tăng, không ítbộ phận học sinh sống buông thả, thích hưởng thụ, chưa ý thức rèn luyện bảnthân, có biểu hiện lệch lạc về lối sống, suy thoái về nhân cách, đạo đức. Đâycũng là tình trạng đáng báo động ở Trung tâm giáo dục thường nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, song nguyên nhân sâu xalà do các em thiếu hụt về kĩ năng sống. Do vậy, cần phải giáo dục kĩ năng sốngcho học sinh để hình thành và phát triển cho các em khả năng làm chủ bản thân,khả năng ứng xử phù hợp với những người chung quanh, khả năng ứng phó tíchcực trước những tình huống phức tạp, muôn hình muôn vẻ của cuộc Môn Ngữ văn là một môn học có khả năng đặc biệt trong việc giáodục kĩ năng sống cho học sinh nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập. Bảnchất của môn Văn là sự kết hợp giữa tính khoa học và nghệ thuật. Để học sinhcó thể vừa cảm thụ, rung động với cái hay cái đẹp của một tác phẩm vănchương, vừa hình thành các kĩ năng để ứng phó với thực tiễn cuộc sống khôngphải điều đơn khác, hiện nay trong xu thế chung của xã hội, môn Văn đang mất dầnvị thế của nó, thậm chí trở thành "gánh nặng" đối với học sinh. Thay vào đó, họcsinh chỉ chú trọng đến các môn học khoa học tự nhiên mà "bỏ quên" môn trạng trên đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc dạy Văn. Để trả lại bảnchất nghệ thuật kì diệu cho các giờ học văn, vừa giúp học sinh nhận thức đượccác giá trị trong cuộc sống, hình thành lối sống, cách ứng xử có văn hoá trongcác tình huống đa dạng của cuộc sống trong một khoảng thời gian có hạn không1phải là việc đơn giản. Do vậy, làm thế nào để tích hợp nội dung giáo dục sốngtrong nội dung bài học và thông qua các phương pháp triển khai nội dung bàihọc đến nay vẫn là sự thử nhiệm tìm đường của giáo viên dạy Người thợ xây giỏi là người không chỉ biết cách dùng từng đồ nghềcủa mình mà còn biết đánh giá dụng cụ nào thích hợp nhất cho từng hoàn cảnhcụ thể. Phương pháp dạy học cũng giống như đồ nghề của người thợ xây vậy,chúng đều bình đẳng với nhau. Việc sử dụng chúng tuỳ thuộc vào mục đích vàkhả năng dạy học cụ thể, nội dung bài dạy cụ thể mà người dạy xác định, lựachọn và kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp khác nhau nhằm đem lại hiệuquả cao trong bài dạy của mình. Trong đó, phương pháp dạy học tích cực khôngchỉ phát triển khả năng tư duy sáng tạo của người học mà còn tạo cơ hội tối đacho các thành viên trong tập thể được bộc lộ sự hiểu biết và quan điểm của mìnhvề nội dung và phương pháp học tập cũng như các lĩnh vực khác, giúp học sinhcó nhiều cơ hội rèn luyện khả năng diễn đạt cách thức tư duy và ý tưởng. Khi sửdụng các phương pháp dạy học tích cực, giáo viên có điều kiện để uốn nắn, hìnhthành ở học sinh những kĩ năng cần vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh không phải đến naymới có song bằng những phương pháp giảng dạy tích cực, giáo viên sẽ giúp họcsinh nâng cao kĩ năng sống của mình một cách nhẹ nhàng nhưng hết sức sâu Xuất phát từ những lí do trên, bản thân là một giáo viên dạy Văngiảng dạy trong Trung tâm Giáo dục thường xuyên, tôi luôn có tâm nguyệnmuốn học sinh của mình có khả năng thích ứng với cuộc sống mới, biết tự chủ,sống có bản lĩnh, có nhân cách. Đây chính là lí do tôi đi sâu tìm hiểu và thựchiện đề tài "Giáo dục kĩ năng sống trong giờ đọc hiểu văn bản Đây thôn Vĩ Dạcủa Hàn Mặc Tử".2. Cơ sở lí luận của vấn Quan niệm về kĩ năng Khái niêmTheo WHO "Năng lực tâm lí xã hội là khả năng ứng phó một cách cóhiệu quả với những thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một cánhân để duy trì một trạng thái khoẻ mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua hànhvi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hoá và môitrường xung quanh. Năng lực tâm lí xã hội có vai trò quan trọng trong việc pháthuy sức khoẻ theo nghĩa rộng nhất về mặt thể chất, tinh thần và xã hội. Kĩ năngsống là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lí xã hội này".Theo UNICEF, giáo dục dựa trên kĩ năng sống cơ bản là sự thay đổi tronghành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến thức, tháiđộ và hành vi. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển đổi kiến thức phải làm2gì? và thái độ ta đang nghĩ gì, cảm xúc như thế nào hay tin tưởng vào giá trịnào?, thành hành động làm gì và làm như thế nào?.Như vậy, kĩ năng sống chính là năng lực, khả năng tâm lí - xã hội của conngười có thể ứng phó với những thách thức trong cuộc sống, giải quyết các tìnhhuống và giao tiếp có hiệu Phân loạiTrong giáo dục chính quy của nước ta những năm vừa qua, kĩ năng sốngđược phân loại theo các mối quan hệ, bao gồm các nhóm sauNhóm các kĩ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm các kĩ năngsống cụ thể như tự nhận thức, xác định giá trị, ứng phó với căng thẳng, tìmkiếm sự hỗ trợ, tự trọng, tự tin...Nhóm các kĩ năng tự nhận biết và sống với người khác, bao gồm các kĩnăng cụ thể như giao tiếp có hiệu quả, giải quyết mâu thuẫn, thương lượng, từchối, bày tỏ sự cảm thông, hợp tác,...Nhóm kĩ năng ra quyết định một cách hiệu quả, bao gồm kĩ năng cụ thểnhư tìm kiếm và xử lí thông tin, tư duy phê phán và tư duy sáng tạo, ra quyếtđịnh, giải quyết vấn đề... Ý nghĩa của giáo dục kĩ năng thể nói, kĩ năng sống chính là những nhịp cầu giúp con người biếnkiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Người có kĩnăng sống phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách, biết ứngxử giải quyết vấn đề một cách tích cực, phù dục kĩ năng sống càng trở nên cấp thiết đối với học sinh Trung họcphổ thông. Các em là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những ngườiquyết định sự phát triển của đất nước. Mặt khác, lứa tuổi học sinh là lứa tuổiđang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìmtòi khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệmsống, sức đề kháng chưa cao nên dễ bị lôi cuốn kích động. Nếu không có kĩnăng sống các em sẽ không thể thực hiện tốt được trách nhiệm đối với bản thân,gia đình, xã biệt, việc giáo dục tích hợp kĩ năng sống vào tiết dạy Văn càng trởthành một nhu cầu bức thiếtThứ nhất, trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ, kĩ năngphù hợp. Từ đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh,tích cực, loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực. Kĩ năng sống giúp học sinhcó khả năng ứng phó phù hợp, linh hoạt trong các tình huống của cuộc sốnghàng ngày. Kĩ năng sống giúp học sinh vận dụng tốt kiến thức đã học, làm tăngtính thực hai, tiết học có lồng ghép giáo dục kĩ năng sống bao giờ cũng thânthiện, tích cực, tạo điều kiện cho học sinh thực hành và phát huy tối đa năng lựccủa bản ba, tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận củamình và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo thể nói, giáo dục kĩ năng sống có vai trò vô cùng quan trọng trong việcgiúp học sinh biết làm chủ bản thân, thích ứng và biết cách ứng phó trước nhữngthách thức của cuộc sống. Từ đó, rèn cho học sinh sống có trách nhiệm với bảnthân, gia đình, cộng đồng, mở ra cơ hội, hướng suy nghĩ tích cực và tự tin, tựquyết định là lựa chọn những hành vi đúng Các phương pháp dạy học tích Phương pháp dạy học nhómDạy học nhóm là một hoạt động học tập có sự phân chia học sinh theotừng nhóm nhỏ với đủ thành phần khác nhau về trình độ, cùng trao đổi ý tưởng,một nguồn kiến thức dựa trên cơ sở hoạt động tích cực của từng cá nhân. Từngthành viên của nhóm không chỉ có trách nhiệm với việc học tập của mình màcòn có trách nhiệm quan tâm đến việc học tập của các thành viên trong động nhóm hợp lí, tích cực sẽ giúp học sinh rèn luyện các kĩ năngđảm nhận trách nhiệm, hợp tác, chia sẻ, thương lượng, giải quyết mâu thuẫn,giải quyết vấn Phương pháp trò đã đưa ra một luận điểm vô cùng quan trọng về đặc thù củadạy học kết hợp với trò chơi "Trò chơi học tập là một quá trình phức tạp, nó làhình thức dạy học và đồng thời nó vẫn là trò chơi... Khi các mối quan hệ chơi bịxoá bỏ, ngay lập tức trò chơi biến mất và khi ấy, trò chơi biến thành tiết học,đôi khi biến thành sự luyện tập". Vì vậy có thể kết luận học và chơi là hai việckhông loại trừ lẫn nhau. Trò chơi có thể được điều chỉnh cho phù hợp với hầuhết các chủ đề hoặc đề tài trong nội dung học chất của phương pháp trò chơi là dạy học thông qua việc tổ chức hoạtđộng cho học sinh. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được hoạt độngbằng cách tự chơi trò chơi trong đó mục đích của trò chơi chuyển tả mục tiêucủa bài học. Luật chơi cách chơi thể hiện nội dung và phương pháp học, đặcbiệt là phương pháp học tập có sự hợp tác và sự tự đánh chơi học tập khác với trò chơi khác ở chỗ nhiệm vụ nhận thức và luậtchơi trong trò chơi, đòi hỏi người chơi phải huy động trí óc làm việc thực sựnhưng chúng lại được thực hiện dưới hình thức vui vẻ, thú vị. Học trong quátrình chơi là quá trình lĩnh hội tri thức nhẹ nhàng, tự nhiên không gò bó, khơi4dậy hứng thú tự nguyện và giảm thiểu sự căng thẳng cho học sinh. Học tậpthông qua trò chơi sẽ giúp học sinh ghi nhớ tri thức dễ dàng và bền vững chơi học tập giúp học sinh lĩnh hội những tri thức và kĩ năng khácnhau mà không có chủ định từ trước. Đồng thời, giúp người học cảm nhận đượcmột cách trực tiếp kết quả hành động của mình, từ đó thúc đẩy tính tích cực, mởrộng, củng cố và phát triển vốn hiểu biết của người pháp trò chơi được sử dụng trong học tập để hình thành kiếnthức, kĩ năng mới hoặc củng cố kiến thức, kĩ năng đã học. Việc tạo ra trò chơimà học không chỉ giúp học sinh khắc sâu tri thức, nâng cao nhận thức mà còntăng cường các kĩ năng sống cho học sinh như biết ứng xử linh hoạt, quan hệtích cực và hợp tác,... Phương pháp đóng vaiĐóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành để trình bàynhững suy nghĩ, cảm nhận và ứng xử theo một "vai giả định". Đây là phươngpháp giảng dạy nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cáchđừng từ chỗ đứng, góc nhìn của người trong cuộc, tập trung vào một sự kiện cụthể mà các em quan sát từ vai của hiện phương pháp đóng vai, học sinh được rèn luyện, thực hànhnhững kĩ năng ứng xử, bày tỏ thái độ trong mỗi trường an toàn trước khi thựchành trong thực tiễn. Mặt khác, phương pháp gây hứng thú và chú ý cho họcsinh, giúp học sinh hình thành kĩ năng giao tiếp, có cơ hội bộc lộ cảm xúc, đồngthời tạo điều kiện làm phát triển óc sáng tạo của học sinh, khích lệ sự thay đổithái độ, hành vi của học sinh theo hướng tích Thực trạng của vấn Thuận lợiGiáo dục kĩ năng sống cho học sinh là một nội dung quan trọng và thiếtthực trong chiến lược giáo dục toàn diện. Chưa bao giờ xã hội, đặc biệt là ngànhgiáo dục lại ý thức rõ cần phải truyền đạt các kĩ năng sống cho học sinh trongthời kì hội nhập như bây giờ. Bộ Giáo dục và đào tạo đã tổ chức nhiều lớp tậphuấn, bồi dưỡng cho cán bộ quản lí, giáo viên về giáo dục kĩ năng sống cho họcsinh phổ thông, hướng dẫn tích hợp kĩ năng sống trong các môn học ở khác, mục tiêu và nội dung của môn Ngữ văn đã chứa đựng nhữngyếu tố của giáo dục kĩ năng sống, phù hợp với các nội dung cơ bản của giáo dụckĩ năng sống, phù hợp với cách tiếp cận làm thay đổi hành vi của người học trêncơ sở nhận thức về các nội dung của môn Ngữ nay, hầu hết giáo viên đã nắm rõ đặc trưng cực các phương pháp dạyhọc tích cực và vận dụng linh hoạt trong các giờ dạy học Ngữ văn. Nếu được sử5dụng phù hợp, mềm dẻo thì việc giáo dục kĩuynhiên hình thức này cũng cần phối hợp với các biện pháp khác và không phảigiờ học nào cũng có thể tổ chức cho học sinh thảo luạn nhóm. Mặt khác, ngườigiáo viên phải biết cách tổ chức, định hướng hoạt động nhóm của học sinh saocho hiệu quả, không khiên cưỡng, áp đặt mang tính hình phương pháp dạy học nhóm, có rất nhiều cách phân chia nhómkhác nhau. Nếu hoạt động nhóm diễn ra trên lớp học thì nên tạo các nhóm nhỏ,tối đa 10 học sinh một nhóm để học sinh có điều kiện để thảo luận với nhau. Cácnhóm này cũng không nên trùng lặp trong suốt quá trình dạy của giáo viên. Việcphân chia nhóm linh hoạt sẽ giúp học sinh hứng thú hơn, đồng thời tạo cơ hộicho các học sinh được học hỏi, giao lưu với các bạn trong lớp. Ví dụ, giáo viêncó thể chia nhóm theo cách gộp hai bàn kế nhau làm một nhóm, với mô hình lớphọc phổ biến trong trường phổ thông ở Việt Nam hiện nay thì cách chia này hiệuquả vì học sinh dễ dàng xoay chuyển để thảo luận cùng nhau, hoặc trong trườnghợp vấn đề cần thảo luận không quá khó, ta có thể chia theo nhóm đơn vị mộtbàn là một nhóm, ngoài ra cũng có thể chia nhóm theo ngày sinh, theo sở thích,theo đặc điểm,... Tuỳ từng mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm đượcphân chia ngẫu nhiên hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trongtừng phần của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ thực hiện nhiệm vụ trong thảo luận nhóm, nhóm tự bầu nhóm trưởngnếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân công mỗi người một phần việc. Trongnhóm, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, không thể ý lại vào một vàingười hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ lẫn nhautìm hiểu vấn đề nêu ra trong bầu không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quảlàm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp. Đểtrình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đạidiện hoặc phân công mỗi thành viên trình vày một phần nếu nhiệm vụ giao chonhóm phức thôn Vĩ Dạ là một tác phẩm thơ hay nhưng đượm buồn. Nhiều họcsinh cảm thấy "ngại" khi trong một tác phẩm mà tình trải dài đến mênh mang vàsâu thẳm, phần nào đó các em nghĩ không phù hợp với tâm lí lứa tuổi của cácem. Để cải thiện điều này và tạo không khí trong giờ học Văn, giáo viên có thểtổ chức cho các em thảo luận theo nhóm khi tìm hiểu khổ thơ thứ hai theo hìnhthức như sauBước 1 Giáo viên giao nhiệm vụ Cảnh xứ Huế vào buổi chiều và gian 3 phútPhương tiện hỗ trợ Phiếu học HỌC TẬPTên nhóm.......................................................................................................Thành viên trong nhóm..................................................................................Lớp..................................................................................................................Trường...........................................................................................................Nhiệm vụ…...................................................................................................Trả lời.................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... ........................................................................................................Bước 2 Thực hiện nhiệm vụ- Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm, thực hiện các nhiệm vụ cụ thể~ Nhóm 1 Cảnh xứ Huế trong buổi chiều được tái hiện như thế nào?Nhận xét về bức tranh thiên nhiên?~ Nhóm 2 Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên trong đêm trăng? Bứctranh ấy đem đến cho em ấn tượng gì về xứ Huế?~ Nhóm 3 Đằng sau bức tranh thiên nhiên xứ Huế và buổi chiều và trongđêm trăng, em cảm nhận gì về tâm trạng của nhà thơ?- HS thảo 3 Trình bày kết quả- Đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận, các thành viên của nhóm cóthể bổ sung Các nhóm khác nhận xét, bổ GV đúc kết, bổ sung ý kiến, nhấn mạnh nội dung quan trọng bằng quá trình học sinh trình bày, giáo viên nên khuyến khích các nhómtham gia thảo luận để bảo vệ quan điểm của mình. Đồng thời khi nhận xét, chođiểm giáo viên cũng nên hướng các em đến các kĩ năng xử lí tình huống nhưkhông trừ điểm nếu học sinh không trả lời được câu hỏi của học sinh khácnhưng có cách xử lí hay. Chẳng hạn, nếu học sinh biết cách chất vấn ngược lạihoặc tìm cách hứa hẹn trả lời sau. Với những giải pháp này, học sinh sẽ dạn dĩhơn, xử lí tình huống nhanh, đồng thời hạn chế được việc học sinh tìm cách nétránh hoặc đùn đẩy trách nhiệm cho bạn trong phương pháp dạy học nhóm, giáo viên sẽ rèn luyện cho học sinh kĩnăng đảm nhận trách nhiệm, thể hiện sự tự tin, chủ động và có ý thức chia sẻcông việc với các thành viên khác trong nhóm. Mặt khác, kĩ năng hợp tác cũngđược hình thành trong quá trình thảo luận, vì học sinh cùng chung sức làm việc,giúp đỡ hỗ trợ lẫn nhau trong một công việc, vì mục đích chung. Đồng thời, vớiphương pháp này, kĩ năng lắng nghe tích cực được phát huy. Khi các nhóm trìnhbày kết quả thảo luận, học sinh sẽ thể hiện được sự tập trung chú ý, thể hiệnđược sự quan tâm lắng nghe ý kiến hoặc phần trình bày của người khác, biết choý kiến phản hồi mà không vội đánh giá, đồng thời hồi đáp trong quá trình Phương pháp trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề haythực hiện những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một tròchơi nào luận và thực tiễn đã chứng tỏ rằng nếu biết tổ chức cho thanh thiếuniên vui chơi một cách hợp lí, lành mạnh thì đều mang lại hiệu quả giáo trò chơi, lớp trẻ không những được phát triển về các mặt trí tuệ, thể chất,thẩm mĩ mà còn được hình thành nhiều phẩm chất và hành vi tích cực. Chính vìvậy, trò chơi được sử dụng như một phương pháp dạy học quan trò chơi, học sinh có cơ hội để thể hiện những thái độ, hành vi. Chínhnhờ sự thể nghiệm này, sẽ hình thành được ở các em niềm tin và những thái độvà hành vi tích cực, tạo ra động lực bên trong cho những hành vi ứng xử trongcuộc sống. Mặt khác, qua trò chơi học sinh sẽ được rèn luyện khả năng quyếtđịnh lựa chọn cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong mọi tình huống,hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kĩ năng nhận xét, đánh giá hành pháp trò chơi có thể tổ chức đầu tiết dạy để tạo tâm thế hứng thúcho học sinh đi vào tìm hiểu bài học hoặc để kiểm tra những kiến thức đã họcqua, hoặc sử dụng ở cuối giờ để củng cố nội dung bài học. Nhưng giáo viêncũng có thể thực hiện phương pháp trò chơi này ở giữa tiết học để nối kết cáchoạt động của bài học, tạo sự chuyển ngoặt sôi nổi, hợp lí. Đặc biệt, giáo viên cóthể tổ chức các trò chơi trong các bài ôn tập nhằm củng cố, khắc sâu và hệ thốngcác kiến thức đã học theo những đơn vị nhất tổ chức trò chơi rất đa dạng, học sinh có thể tham gia chơi dướinhiều hình thức. Luật chơi phụ thuộc vào nội dung và mục đích, bởi cùng mộtnội dung nhưng có thể chơi với nhiều cách khác nhau như Ghép đáp án đúng,ghép tranh đoán nội dung, giải ô chữ...Người tổ chức chơi thông thường là giáo viên, nhưng trong một số trườnghợp giáo viên có thể gợi ý, khuyến khích các em xây dựng trò nhiên, để học sinh làm tốt vai trò của mình, giáo viên phải có nhữngchỉ dẫn cụ thể như đưa ra hình thức chơi mà học sinh có thể áp dụng và hìnhdung ra phải làm như thế nào, cách thiết kế câu hỏi,... Bên cạnh đó, giáo viêncũng phải kiểm tra trước hệ thống câu hỏi học sinh các nhóm đã xây dựng đểgiúp học sinh có những điều chỉnh đúng hướng, đáp ứng yêu cầu của bài học. Dĩnhiên là giáo viên cũng chỉ dẫn dắt, góp ý chứ không nên áp đặt hay cầm tay chỉviệc để học sinh được phát huy khả năng sáng tạo của mình. Giáo viên có thểcho học sinh các nhóm lần lượt triển khai trò chơi của mình rồi chốt lại cuốicùng nhưng vẫn có thế xen kẽ phần thực hiện của học sinh với phần củng cố củagiáo phương pháp trò chơi này, không những việc học trở nên hứng thúhơn mà học sinh còn được rèn luyện, nâng cao các kĩ năng như hợp tác, tổ chức,dẫn dắt vấn đề, xử lí tình huống,... Nhưng khi tổ chức hình thức dạy học bằngphương pháp trò chơi, giáo viên phải nghĩ ra các hình thức chế tài nhất định đểhọc sinh chơi trong luật, có ổn định trật tự bởi với mô hình lớp học trong trườngphổ thông của chúng ta hiện nay rất khó cho giáo viên tổ chức phương pháp nàymà không ảnh hưởng đến các lớp học xung quanh. Đây cũng là điều mà ngườiviết gặp khó khăn nhất khi tổ chức phương pháp dạy học bằng phương pháp tròchơi, bởi khi đã chơi là có thắng - thua vì vậy học sinh dễ phấn khích và ồn àohơn các giờ học thông thường, ngoài ra cũng không ngoại trừ trường hợp họcsinh cố tình gây rối. Dù có những khó khăn nhất định nhưng phương pháp dạyhọc này đã khắc phục phần nào nhược điểm học tập thụ động ở học sinh, là mộttrong những phương pháp hiệu quả trong việc tạo hứng thú cho học sinh tronggiờ học môn Văn và rèn luyện KNS hữu hiệu cho các văn bản "Đây thôn Vĩ Dạ", giáo viên cũng có thể tổ chức trò chơi chohọc sinh trong phần củng cố bài. Chẳng hạn, giáo viên tổ chức trò chơi Ai thôngminh hơn?Luật chơi Hai bạn học sinh quay lưng vào nhau, mỗi bạn có một chiếcbảng. Khi GV đọc câu hỏi trắc nghiệm, hai học sinh sẽ ghi đáp án đúng vàobảng của mình. Mỗi câu trả lời đúng được 2 điểm. Kết thúc, bạn nào đạt số điểmcao nhất sẽ giành chiến thắng.* Hệ thống câu hỏi trong trò chơiCâu 1 Tiếng nói nội tâm trong câu hỏi "Sao anh không về chơi thôn Vĩ"không mang sắc thái cảm xúc nào?A. Mời mọcB. Trách mócC. Băn khoănD. Khát khao10Câu 2 Câu thơ nào trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử gợi vẻ đẹpnên thơ, hài hoà giữa thiên nhiên và con người thôn Vĩ?A. Nhìn nắng hàng cau nắng mới lênB. Lá trúc che ngang mặt chữ điềnC. Vườn ai mướt quá xanh như ngọcD. Sao anh không về chơi thôn Vĩ?Câu 3 Những hình ảnh sử dụng trong khổ 1 có đặc điểmA. Giản dị, gần gũi, đậm chất dân gianB. Giàu sức gợi, mang màu sắc tượng trưngC. Trang trọng, hàm súc, mang đậm màu sắc cổ điểnD. Táo bạo, hiện đại, tạo cảm giác khi trò chơi kết thúc, giáo viên nhận xét, cho điểm và trao thưởng chongười dành thắng lợi. Cuối cùng, thông qua trò chơi, giáo viên chốt lại kiến thứcbài vậy, khi tham gia vào trò chơi, các em sẽ được hình thành kĩ năngmột số kĩ năng cần thiết như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ nănggiải quyết căng thẳng, biết ứng xử linh hoạt, quan hệ tích cực và hợp tác,... Phương pháp đóng vaiPhương pháp đóng vai là một trong những phương pháp tối ưu, giúp họcsinh phát triển trí tuệ, phát huy các kĩ năng và thao tác tư duy thông qua hoạtđộng "đóng vai", ứng xử tình môn Ngữ văn, phương pháp đóng vai được thực hiện trong một sốnội dung học tập sau vào vai một nhân vật kể lại câu chuyện đã học, chuyển thểthành một văn bản văn học thành kịch bản sân khấu, xử lí một tình huống giaotiếp giả định,...Giáo viên khi sử dụng phương pháp đóng vai phải đảm bảo các yêu cầu- Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề giáo dục chủ đề bài học,phù hợp với lứa tuổi, trình độ học sinh và điều kiện, hoàn cảnh lớp Tình huống nên để Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong tình huống của bài tậpđể đóng vai không lạc Nên khích lệ học sinh nhút nhát cùng tham dụng phương pháp đóng vai sẽ giúp người học phát huy được tính tíchcực, tự giác, độc lập chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng kĩ xảo một cáchvững chắc, phát triển trí tuệ người học và đặc biệt hình thành những kĩ năngsống tích cực cho học dụng phương pháp đóng vai khi dạy văn bản "Đây thôn Vĩ Dạ" củaHàn Mặc Tử, giáo viên có thể cho học sinh đóng vai một phóng viên đangphỏng vấn nhà văn Hàn Mặc Tử khi hướng dẫn các em tìm hiểu hoàn cảnh sángtác của bài thơ. Chẳng hạnPhóng viên Thưa nhà thơ, nhà thơ có thể cho biết tác phẩm Đây thôn VĩDạ được sáng tác trong hoàn cảnh nào ạ?Hàn Mặc Tử đóng vai À, đây là "đứa con" rất đặc biệt của tôi. Đó làthời gian tôi đã mắc bệnh và đang ở trại phong Tuy Hoà, một người bạn của tôilà Hoàng Thị Kim Cúc đã gửi cho tôi một tấm bưu thiếp kèm theo vài lời độngviên, thăm hỏi. Vì quá xúc động nên dòng cảm xúc tuôn trào, và Đây thôn Vĩ Dạra đời trong hoàn cảnh viên Vì sao tấm bưu ảnh ấy khiến ông xúc động như vậy?Hàn Mặc Tử đóng vai Thực ra, có rất nhiều lí do khiến tôi rất xúc động,tuy nhiên, đây là một món quà ý nghĩa vì người thiếu nữ Vĩ Dạ ấy chính là"người tình trong mộng" của tôi. Hàn Mặc Tử cườiPhóng viên Nếu nói như vậy, bài thơ chính là để bày tỏ tình cảm của ôngvới người con gái Vĩ Dạ đó ạ?Hàn Mặc Tử Tôi xin không trả lời câu hỏi này của anh, và xin mời anh sẽdự một tiết học Văn của các em học sinh Trung tâm Giáo dục thường xuyên khicác em tiếp cận bài thơ của tôi. Khi đó, tôi tin chắc, anh sẽ có câu trả lời viên Vâng, xin cảm ơn nhà thơ!Khi nhập vai nhân vật, học sinh không chỉ được tích hợp kiến thức vớiphân môn tiếng Việt "Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn". Đây cũng chính là cơ hộiđể các em được luyện tập lĩnh vực kiến thức đã thúc cuộc phỏng giáo viên nhận xét, chốt kiến cách thức trên, giáo viên không chỉ củng cố cho học sinh những kiến thứccơ bản mà còn giúp cho giờ học không trở nên khô khan, nhàm chán, thụ biệt, bằng phương pháp đóng vai, giáo viên sẽ giáo dục học sinh số kĩ năngcơ bản như- Kĩ năng giao tiếp Đóng vai đòi hỏi học sinh phải chủ động trong quátrình học tập. Mặt khác, trong quá trình tham gia đóng vai, học sinh sẽ đượchình thành kĩ năng trong giao tiếp giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể,từ đó giúp học sinh biết cách giao tiếp, ứng xử với bạn bè cùng trang lứa, vớinhững người xung Kĩ năng giải quyết tình huống Thông qua đóng vai, học sinh thể hiệnnhận thức, thái độ của mình trong tình huống cụ thể và học sinh phải có cáchứng xử sao cho phù hợp với tình huống đó. Đồng thời thông qua vai diễn, HS12được bộc lộ khả năng giao tiếp, khả năng tự giải quyết các vấn đề về sức khoẻ,các tình huống trong cuộc Kĩ năng thuyết trình Thông qua việc hoá thân vào vai diễn, học sinh sẽtrở lên tự tin hơn khi đứng trước đám đông. Nếu được thực hành nhiều, bản thânhọc sinh sẽ tự rút ra kinh nhiệm cho bản thân để làm sao thuyết phục được ngườinghe, để "truyền lửa" cho "khán giả" của Kĩ năng nhận thức và cảm thông Khi học sinh có thể hình dung và đặtmình trong hoàn cảnh của người khác sẽ giúp các em hiểu và chấp nhận ngườikhác, có thể hiểu rõ cảm xúc và tình cảm của người khác và cảm thông với họ,từ đó các em sẽ hình thành kĩ năng thể hiện sự cảm thông. Đây cũng là những kĩnăng quan trọng, cần thiết trong cuộc sống mà các em có thể được hình thànhthông qua bài vậy, việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực sẽ tạo điều kiện,cơ hội cho học sinh được thực hành, trải nghiệm kĩ năng sống trong quá trìnhhọc tập. Với cách tiếp cận này, sẽ không làm nặng nề, quá tải thêm nội dung bàihọc mà ngược lại còn làm giờ học trở nên hứng thú, thiết thực và bổ ích với Giáo án thể nghiệmTuần 24Tiết 78Đọc vănĐÂY THÔN VĨ DẠ- Hàn Mặc Tử I. Mục tiêu bài học1. Kiến thức- Cảm nhận được bài thơ là bức tranh phong cảnh, cũng là tâm cảnh, thểhiện nỗi buồn cô đơn của nhà thơ trong mối tình xa xăm, vô vọng. Qua đó hiểuđược lòng yêu thiên nhiên, cuộc sống và khát khao hạnh phúc thiết tha của HànMặc Nhận biết sự vận động của tứ thơ và bút pháp nghệ thuật tài hoa độc đáocủa một nhà thơ Kĩ năngTiếp tục hoàn thiện kĩ năng đọc thơ trữ Thái độTrân trọng những khát vọng hạnh phúc của con Năng lực- Năng lực giao tiếp tiếng Việt- Năng lực thưởng thức văn học, cảm thụ thẩm Năng lực hợp Năng lực tự quản bản thânII. Chuẩn bị131. Giáo viên- Phương pháp gợi mở nêu vấn đề, vấn đáp, bình giảng, thảo luận…- Phương tiện SGK, SGV, Thiết kế bài học, tranh ảnh…2. Học sinhChuẩn bị Tiến trình dạy học1. Ổn định lớp2. Kiểm tra bài cũTâm hồn của thi nhân trong bài thơ "Tràng giang" của Huy Cận?3. Bài mới* Giới thiệu bài mới* Triển khai nội dungHoạt động của giáo viên và học sinh Nội dung cơ bản cần đạtHoạt động 1 Tìm hiểu Tiểu Tiểu giả- GV tạo tâm thế tiếp nhận Cho họca. Cuộc đờisinh xem video về HMT, sau đó yêu- Tên thật Nguyễn Trọng Trí 1912 cầu HS thu thập thông tin hoàn thành1940.phiếu học tập theo nhiệm vụ được- Quê làng Mĩ Lệ, tổng Võ Xá, huyệnphân công của mỗi nhómPhong Lộc, tỉnh Đồng Hới nay là~ Nhóm 1 Tìm hiểu về cuộc đời củatỉnh Quảng Bình.Hàn Mặc Tử?- Ông có số phận đau thương và bất~ Nhóm 2 Tìm hiểu về sự nghiệp văn hạnhhọc của Hàn Mặc Tử?~ Cha mất Thời gian làm việc 4 phút~ Năm 24 tuổi mắc bệnh phong, ông- Đại diện nhóm trình bày. Các nhómvề Quy Nhơn để chữa trị.~ Ông mất khi tuổi đời còn rất trẻ 28khác nhận GV chốt kiến thức bằng sơ Sự GV giới thiệu một vài hình ảnh tư- HMT là nhà thơ lạ nhất trong phongliệu về Hàn Mặc thơ Ông là một nhà thơ tài hoa, có sứcsáng tạo mạnh mẽ nhất trong phongtrào Thơ GV cung cấp cho học sinh một số đặc - Hàn Mặc Tử là một hồn thơ mãnhliệt nhưng luôn quằn quại đau đớn, cóđiểm về thơ Hàn Mặc HS nghe và ghi giằng xé dữ dội trong tâm hồn vàthể xác. Mặc dù vậy ông vẫn cónhững vần thơ trong sáng hồn Tác phẩm chính Gái quê 1938,Thơ Điên 1939, Xuân như ý,Thượng thanh khí, Cẩm châu Duyên,14- GV Dựa vào phần hướng dẫn HSchuẩn bị ở nhà, GV tổ chức học sinhđóng vai trong tình huống Một phóngviên phỏng vấn Hàn Mặc Tử về hoàncảnh sáng tác của bài HS nhập vai, tái hiện kiến GV nhận xét, chốt kiến thức và địnhhướng tìm hiểu tác GV đưa bài tập trắc nghiệm về âmđiệu bài HS chọn và đọc bài thơ theo âm điệuđã GV cho HS nghe khúc ngâm bài Đâythôn Vĩ Dạ và hướng dẫn HS cáchđọc+ Khổ 1 Giọng đọc chậm rãi, thiếttha, tươi vui.+ Khổ 2, 3 Trầm buồn, da GV đưa câu hỏi trắc nghiệm tìm hiểuvề đề tài bài HS chọn đáp án GV định hướng cách tìm hiểu bài động 2 Đọc - hiểu văn GV hỏi Ở khổ 1, tác giả đã miêu tảthôn Vĩ vào thời điểm nào?- GV hướng dẫn HS tìm hiểu câu thơthứ nhất trong khổ 1~ Hình thức?~ Chủ thể?~ Sắc thái?- HS suy nghĩ, trả kì ngộ kịch thơ- 1939…→ Hàn Mặc Tử là một nhà thơ cócuộc đời riêng nhiều bi thương nhưngông đã vượt qua với nghị lực phithường và có sức sáng tạo mạnh Tác Xuất xứ rút từ tập Thơ Điên 1938.- Hoàn cảnh ra đời Bài thơ được khởihứng từ bức bưu ảnh mà Hoàng Cúc "người tình trong mộng của nhà thơ"- gửi Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranhđẹp, trong trẻo về một miền quê đấtnước, là tiếng lòng của một con ngườitha thiết yêu Đọc - hiểu văn bản1. Khổ 1 Thôn Vĩ buổi bình Câu hỏi tu từ "Sao anh không vềchơi thôn Vĩ ?"+ Lời người con gái xứ lời mời mọc tha thiết-> lời trách cứ nhẹ nhàng.+ Lời tác giả tự câu hỏi thấm thía một nỗi15- GV chốt GV dùng phương pháp thảo luậnnhóm và kĩ thuật mảnh ghép tìm hiểu 3câu thơNhìn nắng hàng cau nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điềnCụ thể~ Nhóm 1 Cảnh vườn thôn Vĩ đượcmiêu tả qua những hình ảnh nào? Cảmnhận của anh chị về cảnh vườn tượcthôn Vĩ Dạ?~ Nhóm 2 Chỉ ra những đặc sắc nghệthuật được tác giả sử dụng để tái hiệnlại bức tranh thôn Vĩ?~ Nhóm 3 Con người thôn Vĩ được táihiện qua những hình ảnh nào? Cảmnhận về vẻ đẹp con người xứ Huế quanhững hình ảnh đó?- HS thảo luận- GV yêu cầu đại diện nhóm trình nhóm khác nhận xét, bổ cảm về hạnh phúc chia lìa.~ Nhóm 2 Cảm nhận về bức- Thiên nhiên trong đêm trăngtranh thiên nhiên trong đêm trăng? Bức + Sông trăng dòng sông như được dáttranh ấy đem đến cho em ấn tượng gìbạc, ánh lên lộng lẫy.+ Thuyền ai ngỡ ngàng, bângvề xứ Huế?khuâng, vừa quen vừa lạ.~ Nhóm 3 Đằng sau bức tranh→ Hình tượng thơ đẹp đẽ, thơ mộng,thiên nhiên xứ Huế và buổi chiều vàlãng mạn, thi vị của đêm trăng, em cảm nhận gì vềtâm trạng của nhà thơ?- HS thảo 3 Trình bày kết quả- Đại diện nhóm trình bày kếtquả thảo luận, các thành viên củanhóm có thể bổ sung Các nhóm khác nhận xét, GV đúc kết, bổ sung ý kiến,nhấn mạnh nội dung quan trọng bằngtrình GV hỏi Trong thơ ca, "thuyền, bến,trăng" thường là những hình ảnh mangtính biểu trưng. Hãy cho biết ý nghĩabiểu tượng của những hình ảnh này. Từđó ta thấy được điều gì trong tâm trạngnhà thơ?- HS phát hiện, cảm GV chọn Điểm sáng thẩm mĩ đểbình "Nó vẫn đẹp trong quên lãng. Ấylà chữ "kịp". Phải, chữ "kịp" mớimang bi kịch của tâm hồn ấy, thânphận ấy. Ta và cả những người đọc thơsau không biết "tối nay" là tối nào cụthể. Nhưng qua giọng khắc khoải vachữ "kịp" thì thi sĩ sẽ hoàn toàn lâmvào cảnh tuyệt vọng, vĩnh viễn đauthương. Chữ "kịp" hé mở cho ta thấymột mặc cảm mặc cảm về một hiện tạingắn ngủi, hé mở cho ta một cách thếsống sống là chạy đua với thời thời gian đang vơi đi từng ngày,từng khắc, cuộc chia lìa vĩnh viễnđang tới gần, thi sĩ mong mỏi đến đauthương! Thơ là sự lên tiếng của thânphận , định nghĩa ấy hoàn toàn đúngvới Hàn Mặc Tử".- Gv yêu cầu HS khái quát về khổ thơthứ 2?- HS khái GV cho HS đọc khổ thơ và nêu cảmnhận sau khi GV hỏi Cảnh vật trong khổ thơ thứba có gì khác với khổ thứ nhất và khổthứ hai?- GV cho học sinh lần lượt cắt nghĩa- Hình ảnh biểu tượng+ Thuyền người con trai+ Bến người con gái+ Trăng hạnh phúc lứa đôi.→ Thuyền chở trăng là thuyền chởtình yêu. Bến sông trăng là bến bờhạnh phúc. Liệu con thuyền chở tìnhyêu có kịp cập bến bờ hạnh phúc haykhông?→ Câu hỏi chất chứa sự khắc khoải,sự chờ đợi mòn mỏi tình yêu, hạnhphúc của thi nhân. Ẩn sau đó là sựmông lung, hồ nghi, thất vọng.→ Cảnh vật xứ Huế trong buổi chiềuvà đêm trăng buồn bã, hắt hiu nhưngkhông kém phần thơ mộng. Đó làcảnh vật được nhìn qua niềm hi vọngda diết được về thăm lại xứ Huếnhưng lại bất lực của thi Khổ 3 Niềm khát khao giao hòagiữa thi nhân và con người xứ Cảnh, người trong mộng. Thiênnhiên nhường chỗ cho sự hiện diệncủa con người.+ Khách đường xa người đang sống18các hình ảnh+ "Khách đường xa" là ai? Điệp từ cótác dụng gì?+ "Áo em" là ai? "Trắng quá nhìnkhông ra" nghĩa là thế nào?+ "Ở đây" là ở đâu?+ "Sương khói" mang ý nghĩa gì?- HS phân tích, cắt GV Từ vệc cắt nghĩa các hình ảnh,hãy nêu cảm nhận của em về hiện thựcđược miêu tả?- GV Dựa vào quy luật tâm lí để bìnhgiảng Hình ảnh con người xứ Huế vàtình em như rời xa bởi "khói sương mờnhân ảnh". Giữa nhà thơ bạc mệnh vàcon người xứ Huế có một hố sâu ngăncách em - người xứ Huế thì xa xôiquá, còn nhà thơ thì biết mình mắcbệnh hiểm nghèo, một bên là cuộcsống tình yêu hé mở, một bên là nỗi côđơn, cái chết dày vò. Vì vậy, hình ảnhkhói sương trong bài thơ là khói sươngcủa một mối tình mong manh chưa mộtlời hẹn ước, khói sương của một tráitim yêu đời, yêu người nhưng biếtmình sắp từ giã cuộc đời. Tất cả điềuđó đã làm nên sự xa xôi hư ảo và nỗibuồn xót xa, sâu GV hỏi Cảnh cũng như tình. Đằngsau cái hiện thực ấy, em nhận ra tâm tưnào của thi nhân?- HS phát GV yêu cầu HS nêu khái quát về khổở Vĩ Dạ, cũng có thể là nhà thơ.→ Điệp từ "khách đường xa" gợikhoảng cách xa xôi, cách trở.+ "Áo em" áo của người con gái xứHuế.→ "Trắng quá nhìn không ra" thinhân đang sống trong ảo giác, khôngphải nhìn bằng mắt thường.+ Ở đây - ở xứ Huế- nơi nhà thơ sống, cách xaxứ Huế.+ Sương khói - sương khói thực vì códòng sông Hương chảy tượng trưng cho hốsâu ngăn cách giữa nhà thơ với xứHuế và cuộc đời.→ Xa xôi, hư ảo, mờ nhòe, càng lúccàng chìm vào cõi Thi nhân cảm nhận rõ nét khoảngcách xa xôi, cái hư ảo ngày càng rõcủa tình yêu, hạnh phúc.→ Khổ thơ là niềm khát khao giaocảm giữa thi nhân và con người xứHuế, đồng thời thể hiện một mối đáo, xót xa, vô vọng của nhà thơđối với người con gái xứ GV tổ chức HS thảo luận nhóm+ Từ khổ 1 → khổ 2 → khổ 3~ Cảnh vật tươi sáng giàu sức sống4HS/ nhóm Như vậy 3 khổ thơ là 3→ ảm đạm, uể oải → hư ảo, mờ tranh khác nhau. Phải chăng bàithơ là sự chắp nối vụng về, rời rạc giữa ~ Tâm trạng thi nhân hi vọng → dựcảm chia lìa, thất vọng, hồ nghi →3 đoạn? Có "dòng chảy" nào xuyêntuyệt các khổ thơ" ?+ Đại từ phiếm chỉ "ai" mang nghĩa- GV gợi ý+ Nhận xét sự biến đổi của cảnh vật và mơ hồ lặp lại đều đặn trong các khổtâm trạng thi nhân từ khổ thứ nhất đến thơ vườn ai, thuyền ai, ai biết tình ai.+ Sự lặp lại của các câu hỏi tu từkhổ thứ hai và khổ thứ các khổ "Sao anh không về+ Tìm và phân tích các tín hiệu ngônchơi thôn Vĩ?", "Có chở trăng về kịpngữ liên kết các khổ HS phát hiện -> trình nay?", "Ai biết tình ai có đậm đà?"- GV nhận xét -> chốt hiện sự khắc khoải, khát khao tìnhyêu hạnh phúc của chủ thể trữ động 3 Tổng kếtIII. Tổng Kết1. Nội GV yêu cầu HS khái quát giá trị nội- Bài thơ đã tái hiện lại khung cảnhdung, giá tri nghệ thuật của bài thơxứ Huế đằm thắm thơ mộng, đồng- HS khái bộc lộ tâm trạng của nhà thơ, đó- GV yêu cầu HS đọc Ghi nhớ SGK. là một tình quê, một tình yêu thầm kíntrong trẻo, đó là nỗi buồn xót xa sâulắng của nhà thơ trước thiên nhiên,con người và hạnh phúc cuộc Nghệ thuật- Hình ảnh thơ độc đáo, đẹp, gợi ngữ trong sáng, tinh tế, đanghĩa. Các biện pháp nghệ thuật câuhỏi tu từ, điệp từ, nhân hóa được sửdụng thành động 4. Củng cốCâu 1. Nội dung nào sau đây không có trong "Đây thôn Vĩ Dạ"A. Tình cảm đối với thiên nhiên và con người xứ HuếB. Nỗi buồn mang dự cảm về hạnh phúc chia Nỗi buồn sâu kín về một tình yêu đơn Tâm sự của một chàng trai trẻ tài hoa nhưng thất 2 Tâm trạng của thi nhân trong bài thơ?Hoạt động 5. Hướng dẫn về nhà- Nắm được giá trị nội dung và nghệ thuật của tác Soạn bài " Chiều tối" của Hàn Mặc Kết quả đạt dụng những phương pháp dạy học tích cực vào giáo dục sống cho họcsinh qua đoạn trích "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử, tôi đã thu được nhữngkết quả mong đợi. Giờ học Văn không còn nhàm chán khi học sinh chủ động,tích cực, sáng tạo chiếm lĩnh tác phẩm. Học sinh đã vô cùng hào hứng, các emphát biểu, bàn luận, tranh cãi,... và qua những hoạt động dạy học các em đã tựrút ra được những kĩ năng sống cho riêng ràng, với những ưu điểm của các phương pháp dạy học tích cực, giờhọc Văn đã "chạm" đến tâm hồn các em, để các em biết sống, biết yêu, biết khátkhao, biết mơ ước.... Cô và trò cùng say sưa, cảm thấy hứng thú trong mỗi giờvăn. Một giờ Văn là một trải nghiệm mới, mỗi giờ Văn đều khiến các em "sống"thực sự. Môn Văn không còn là "gánh nặng" với các em, ngược lại văn học làmột phần tất yếu của cuộc Điều kiện để chuyên đề được nhân tài cần có sự góp ý xây dựng để hoàn thiện nên rất cần sự đóng góp ýkiến của đồng nghiệp và tổ chuyên giáo dục kĩ năng sống cho học sinh được thực hiện một cách đồng đềuở các lớp, tổ chuyên môn phải lên kế hoạch và có phương hướng triển khai dục kĩ năng sống không chỉ qua một giờ đọc hiểu kịch cụ thể, cũngkhông phải là việc làm trong ngày một, ngày hai mà nó phải trở thành một quátrình thường xuyên, liên tục trong dạy học Ngữ văn. theo phương thức "mưadầm thấm lâu". Người giáo viên Ngữ văn phải luôn có ý thức lồng ghép kĩ năngsống cho học sinh vào bài giảng, lựa chọn những phương pháp dạy học tích cực,phù hợp với nội dung từng bài học để có kết quả cao nhất , qua đó phát huy tính21chủ động, sáng tạo của học sinh, hình thành những kĩ năng sống cần thiết quamỗi bài LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ1. Kết luậnGiáo dục kĩ năng sống cho học sinh là một bộ phận quan trọng của giáodục nhà trường, nhằm hình thành cho học sinh ý thức, hành vi, thái độ, cách ứngxử có văn hoá và khả năng ứng phó với những tình huống phức tạp của cuộcsống. Trong bối cảnh xu hướng toàn cầu hoá, quốc tế hoá và sự phát triển mạnhmẽ của nền kinh tế thị trường như hiện nay, việc giáo dục kĩ năng sống cho họcsinh càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn lúc nào thực tiễn dạy học, đặc biệt khi áp dụng phương pháp dạy học tích cựcvà dạy văn bản "Đây thôn Vĩ Dạ" để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, tôinhận thấy học sinh phát huy được nhiều mặt tích cực tự định hướng được hoạtđộng học tập, tự khám phá tích hợp, trình bày, tự chủ động trong hoạt động họctập. Mặt khác, các em được rèn luyện nhiều kĩ năng sống cơ bản như kĩ năng raquyết đinh và giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp và hợp tác, kĩ năng nhận thứcvà cảm thông, kĩ năng tự học...Các phương pháp dạy học tích cực đều lấy hoạt động của người học lamtrung tâm, tuy nhiên mỗi phương pháp có những điểm khả thủ và có những điểmhạn chế riêng, vì vậy khi vận dụng phương pháp dạy học tích cực đòi hỏi giáoviên phải hết sức linh hoạt, lựa chọn sao cho phù hợp với đặc trưng bài học,năng lực học sinh, điều kiện áp dụng của từng thời hình thành được kĩ năng sống cho học sinh, đòi hỏi giáo viên phải cókhả năng tư duy, nghiên cứu, khai thác nội dung tư tưởng của tác phẩm, trình độchuyên môn sâu sắc, kinh nghiệm dồi dào, giáo dục học sinh qua từng bài, tíchluỹ kiến thức cho học sinh chứ không chỉ dạy một lần duy nhất hay một bài họcduy ý kiến cho rằng, dạy kĩ năng sống cũng như dạy một đứa trẻ học bơi,phải kiên trì, tỉ mỉ từng bước một. Giáo viên phải đóng một vai trò quan trọngtrong các hoạt động của học sinh, đánh thức năng lực tiềm năng trong mỗi họcsinh, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinhqua các giờ học Ngữ văn cần theo đặc trưng của môn học và giáo dục theo conđường "mưa dầm thấm lâu" nhẹ nhàng, tự nhiên, không gượng ép theo kiểu sốngsượng", nhồi nhét hoặc giáo viên rút ra kĩ năng sống "hộ" học Khuyến nghị22- Đối với Trung tâm GDTX Quán triệt công tác giáo dục kĩ năng sốngcho học sinh, coi đây là một rrong những nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên củaTrung tâm trong từng năm học. Đồng thời tạo điều kiện cho cái giải pháp trongsáng kiến kinh nhiệm được thực hiện một cách triệt để, đồng bộ, nghiêm túcnhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua mônNgữ những điều trình bày trên, tôi mong có thể đóng góp một phần nhỏ bévào việc nâng cao chất lượng giảng dạy Ngữ văn trong Trung tâm Giáo dụcthường xuyên nói riêng và giảng dạy Ngữ văn nói chung. Mặc dù rất cố gắngnhưng ắt hẳn sẽ không tránh khỏi những sai sót, tôi rất mong nhận được sự đónggóp của quý thầy cô để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thànhcảm ơn!TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn ở trường THPT, Nhiều tác Giáo dục, Những giá trị sống cho tuổi trẻ, Diane, NXB Một số kĩ năng cần thiết dành cho học sinh THPT, NXB Giáo dục,
Chuyên đề THI SĨ HÀN MẶC TỬ - TÁC GIA, TÁC PHẨM VÀ TIẾP NHẬN Quy Nhơn, ngày 21/9/2019 NGUYỄN HỮU SƠN Viện Văn học 20 Lý Thái Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội Tel 0913031635 Chuyên đề gồm ba nội dung chính Tình hình văn bản - Quá trình tiếp nhận Hàn Mặc Tử qua các thời kỳ - Tiếp nhận Hàn Mặc Tử sau Đổi mới 1986 và định hướng nghiên cứu hiện nay… I. TÌNH HÌNH VĂN BẢN THƠ VĂN HÀN MẶC TỬ 1. Về nguồn thơ Hàn Mặc Tử trên báo Công luận Thi sĩ Hàn Mặc Tử 1912-1940, còn có các bút danh Hàn Mạc Tử, Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh, Lệ Thanh nữ sĩ, Lệ Giang, Sông Lệ, Mộng Cầm, Trật Sên, Cụt Hứng, Foong Tchan, Mlle Phương Liên, Anh Hoa, Cô Đài Trang, Cô Bạch Bình Giang…; từng cộng tác với các báo Tiếng dân, Phụ nữ tân văn, Thực nghiệp dân báo, Sài Gòn, Tân thời, Người mới, Ngày nay, Tin tức, Công luận, Trong khuê phòng, Đông Á tân văn, Impartial, Opinion, La Lutte… Theo quan sát của chúng tôi, công trình sưu tập văn bản học tốt nhất về Hàn tính đến nay chính là Hàn Mặc Tử - Tác phẩm, phê bình và tưởng niệm Tái bản. NXB Văn học, H., 2002; 528 trang của nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ PCĐ, 1933-2007. Trong sách Thơ Hàn Mặc Tử NXB Văn hóa – Thông tin, H., 2001; 342 trang, soạn giả Mã Giang Lân MGL dựa vào thống kê của Phạm Đán Bình Tin nhà, Paris, số 2-1991 cho biết thêm nhan đề 18 mục bài viết của Hàn, đồng thời xác định “thơ Hàn chúng ta mới được đọc chừng 150 bài, còn thất lạc đâu đó” và kỳ vọng “Cái phần chìm khuất kia hy vọng sẽ dần dần được kiếm tìm, bồi đắp, sung mãn”… Trong quá trình sưu tập tài liệu cho công trình “Người đương thời Thơ mới bàn về Thơ mới” và “Di sản văn học Quốc ngữ đến 1975”, chúng tôi vừa tìm thêm được số lượng lớn tác phẩm của Hàn in trên báo Công luận CL, Sài Gòn, 1916-1939 ngoài số đã từng công bố... Hình thức nghệ thuật những bài thơ này khá phong phú, phần lớn làm theo thể Đường luật, một số bài theo lối thơ tự do và các thể hồi văn, ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn xen lục ngôn, thủ vĩ ngâm, song thanh, hát nói, từ khúc, lục bát, song thất lục bát… Về nội dung, phần nhiều các bài thơ hướng tới các giá trị nhân văn, xướng họa với chí sĩ Phan Bội Châu và bạn bè Quách Tấn, Tùng Ngâm, Ngọc Hồ, Trần Bình Lộc, các bạn ở Phú Mỹ - Bình Định và cả những tứ thơ Gửi cho người không quen biết, Phút mơ màng, Tương tư, Canh khuya nhớ bạn…; mở rộng lối thơ du ký, đề vịnh thắng cảnh non sông đất nước xứ Huế, Phan Thiết, chùa Ông Núi – Bình Định, thú chơi tao nhã và vẻ đẹp bốn mùa Cầm, Kỳ, Thi, Tửu; Xuân, Hạ, Thu, Đông; Phong, Hoa, Tuyết, Nguyệt…; tiếp nối dòng thơ hiện thực, phản ánh tâm trạng thi nhân trước hiện tình xã hội với các bài Đêm khuya ở nhà quê, Làm ruộng tự thuật, Than nghèo, Đau mới dậy, Đóng tuồng, Sống khổ và phấn đấu, Theo cách đọc “liên văn bản” có thể thấy thơ Hàn thực sự tiêu biểu cho quá trình hiện đại hóa, tiếp nối giữa hiện tượng sử dụng lối thơ truyền thống với việc gia tăng vai trò nguồn cảm xúc mới; giữa việc khai thác hệ thống chủ đề, đề tài quen thuộc với khả năng bộc lộ tiếng nói của chủ thể trữ tình cá nhân kiểu mới. Đặt trong tương quan so sánh đồng đại có thể nhận ra tứ thơ Gởi cho ai, Nhắn ai, Gởi cho người không quen biết của Hàn tương đồng với những Thư đưa người tình nhân không quen biết, Thư trách người tình nhân không quen biết, Thư lại trách người tình nhân không quen biết của Tản Đà, rồi tương đồng với những Nhắn nhủ, Nhắn ai, Lại nhắn ai của Quách Tấn, Nói riêng trong phạm vi thơ Hàn Mặc Tử, dễ thấy nhiều câu thơ, ý thơ trong số những bài mới phát hiện này có sự giao thoa, gặp gỡ, tiếp nối với nhiều tứ thơ đã biết để làm nên phong cách độc đáo họ Hàn. Đọc câu thơ Ô hay, người thế toàn yêu quái Họa – CL, số 6671, ra ngày 22-10-1934, lại nhớ ý thơ Ô hay, người ngọc biến ra hơi Mơ hoa; đọc câu thơ Dưới trăng đi lững thững/ Bóng dọi ngắm thành đôi Dưới trăng - CL, số 6671, ngày 22-10-1934, lại nhớ Ai đi lẳng lặng trên làn nước/ Với lại ai ngồi khít cạnh tôi Cô liêu; đọc câu thơ Gió đông mơn trớn nhẹ Hái hoa - CL, số 6671, ngày 22-10-1934, lại nhớ Gió say lướt mướt trong màu sáng Huyền ảo; Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu/ Đợi gió đông về để lả lơi Bẽn lẽn; đọc câu thơ Em khoe sắc đẹp bên cành lả/ Dáng điệu mơ màng vẻ thướt tha/ Đón cái xuân về vị tỉnh say/ Đỏ rần đôi má ửng hây hây Yêu để sống - CL, số 6802, ngày 6-4-1935, lại nhớ những câu Sương đẫm trăng lồng bóng thướt tha Hoa cúc; Trăng bay lả tả ngả lên cành vàng Rượt trăng; Từ khi đôi má đỏ hây hây/ Em tập thêu thùa, tập vá may… Những lượt thu về, em thấy xuân/ Trên đôi má nõn lại phai dần Duyên muộn; Xuân em hơ hớ như đào non/ Chàng đã thương thương muốn kết hôn/ Từ ấy xuân em càng chín ửng Mất duyên, Những bài thơ mới phát hiện được của Hàn được ký với các bút danh Hàn Mặc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần, có khi ký tên chung Hàn Mặc Tử và Huyền Không nữ sĩ... Trên thực tế, có khi tác giả ký tên ở từng bài CL, số 6423, có khi ký ở bài cuối trong cùng số có nhiều bài khác nhau CL, số 2587, 2610…, có khi ký vài bút danh ở nhiều bài thơ khác nhau trong cùng một số báo CL, số 2610, 6766, 6778…. Đi vào so sánh văn bản những bài thơ của Hàn từng được công bố trên các sách của PCĐ và MGL thì thấy có mấy sự sai khác. Ở bài Đêm khuya tự tình với sông Hương, cả hai sách đều sai hai chữ trong hai câu thơ Trong thành ngự chết con đen, bản gốc in chữ ngự kia là ngũ, đọc đúng là Trong thành ngủ chết con đen; câu Chiếc thuyền vô định tạt vào bến mê, bản gốc là Chiếc thuyền vô định tạc vào bến mê CL, số 6772, ra ngày 2-3-1935, Với bài Tuồng đời, PCĐ sai hai chữ quan trọng ở câu thơ thứ nhất Tuồng đời lặng lẽ vẽ nên phông, đúng phải là Tuồng đời lăng lố vẽ nên phông CL, số 6790, ra ngày 23-3-1935, Đặc biệt với bài thơ Sống khổ và phấn đấu dài 27 câu, sách PCĐ chỉ in 8 câu trong đó sai chữ ở câu 8, thiếu mất 19 câu CL, số 6802, ra ngày 6-4-1935, 2. Về nguồn văn xuôi Hàn Mặc Tử - Hàn Mặc Tử Bóng liễu bên hồ Truyện ngắn. Sài Gòn, số 657 ra ngày 5-10-1935, - Hàn Mặc Tử Thuật Muốn yết kiến quan tổng thống Lebrun phải một phen vất vả và kinh sợ Một thiên phóng sự ly kỳ 4 kỳ. Sài Gòn, số 658 ra ngày 7-10-1935, số 659 ra ngày 8-10-1935, số 660 ra ngày 9-10-1935, số 661 ra ngày 10-10-1935, - Hàn Mặc Tử Rửa thù Truyện trinh thám. Sài Gòn, số 659 ra ngày 8-10-1935, - Hàn Mặc Tử Thuật Tặng anh JID Cái phòng tối hay là một thiên tiểu thuyết ly kỳ trong nghề trinh thám. Sài Gòn, số 662, ra ngày 11-10-1935, - Khách Tha Hương Hàn Mặc Tử ??? Tặng anh JID Nước Xiêm cũ và nước Xiêm mới – Một đoạn lịch sử tiến hóa của nước Xiêm. Sài Gòn, số 662, ra ngày 11-10-1935, - Lệ Thanh Hàn Mặc Tử Đêm xuân rừng thiền. Sài Gòn, số 753, ra ngày 17-2-1936, 3. Về nguồn phê bình, khảo cứu, dịch thuật của Hàn Mặc Tử Sinh thời Hàn Mặc Tử 1912-1940 không chỉ sáng tác thơ mà còn nêu quan niệm thơ và trao đổi về luật thơ với Phan Bội Châu, Lam Giang, Trương Tửu; có dẫn giải, bình luận thơ Quách Tấn, Bích Khê, Chế Lan Viên; có giảng luận về Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan; có ghi chép văn xuôi, tranh luận về vấn đề triết học “Nhân thế chỉ cảnh” của Đinh Bá Kha; có khảo luận về lịch sử Nhật Bản, phong dao Ai Cập; có phác vẽ chân dung nhà văn, nhà triết học người Pháp Rousseau 1712-1778 và nhà thơ, nhà viết kịch người Ireland Yeats 1865-1939, giải Nobel Văn học năm 1923 và đi sâu giới thiệu nguồn thơ tình của người Cộng sản vĩ đại Karl Heinrich Marx – So với dẫn giải trong sách Thơ Hàn Mặc Tử MGL, PCĐ nêu trên, trước hết cần chỉnh lý, chuẩn hóa nhan đề một số bài viết của Hàn không phải Những câu hát phong tình của cổ Ai Cập mà là Những câu hát phong tình của nước cổ Ai Cập; không phải Khái niệm về thi ca làm thơ cần phải luyện khí mà là Khái niệm về thi ca Thơ có mấy lối? Làm thơ cần phải luyện khí; không phải Đi nghe ông Đinh Bá Kha diễn thuyết về nhân thế Chỉ Cảnh fin de la vie humaine ở học xá Pháp Việt Quy Nhơn mà là Đi nghe ông Đinh Bá Kha diễn thuyết về vấn đề triết học “Nhân thế chỉ cảnh” ở Học xá Pháp - Việt Quy Nhơn… Đồng thời với việc cung cấp đầy đủ văn bản gốc những bài báo trước nay mới chỉ biết nhan đề, nhân đây chúng tôi giới thiệu thêm một số tác phẩm văn xuôi khác của Hàn vừa tìm lại được Mười lăm phút nói chuyện với bà Lê Thành Tường, cựu chủ nhiệm báo Phụ nữ Tân tiến ở Huế Trung Kỳ CL, số 6216, ra ngày 4-4-1933; Khảo về lịch sử Nhật Bản từ nguyên thỉ đến hiện thời CL, từ số 6417, ra ngày 10+11-12-1933; Chết CL, số 6693, ngày 22-11-1934; Rousseau, tiểu thuyết gia CL, số 6760, ra ngày 16-2-1935; Thử ngó qua nước Ái Nhĩ Lan một nhà thi hào được phần thưởng Nobel năm 1924 CL, số 6778, ra ngày 9-3-1935, Tất cả những tác phẩm trên góp phần cho phép chúng ta hình dung đầy đủ, sâu sắc, chuẩn mực, toàn diện hơn nữa chân dung con người, tư tưởng và sự nghiệp văn chương Hàn Mặc Tử… Ở đây chỉ xin giới thiệu một phần bài viết Karl Marx thi sĩ của Hàn Mặc Tử in trên báo Công luận Sài Gòn, số 6825, ra ngày 4-5-1935, Nhận diện đời sống văn học đương thời liên quan đến một tập thơ tình xuất hiện ở nước Đức, Hàn Mặc Tử cho biết “Như một tiếng sấm nổ, tập thi ấy Buch der Lieder Ca ngâm thi tập làm chấn động dư luận, đến nỗi Đức quốc phải triệu tập Đại hội đồng Dièle để ra đạo luật cấm không cho lưu hành quyển thi ấy trong nước nữa. Bởi đâu mà tiên sinh có tài liệu phong phú để viết ra tập Ca ngâm ấy? Kết quả, uyên nguyên một phần ở máu nóng của tuổi thanh niên, một phần ở cái tình cảm nồng nàn, thứ tình mơ mộng mà các nhà thi sĩ hầu hết ai cũng có cả. Xa cách ý trung nhân đã lâu, tiên sinh khao khát, nhớ nhung, mà mỗi lần nghĩ tới cái sắc đẹp lộng lẫy, cái phong thái yêu kiều của một vị tiểu thơ con nhà đài các thì tiên sinh lo ngại nàng sẽ về tay các vương tôn công tử khác”… Từ đây Hàn Mặc Tử thông tin khái lược về mối tình thắm thiết của chàng trai trẻ vừa tròn 18 tuổi Karl Marx với Jenny de Westphalen để chàng có thể viết liền ba tập thơ. Những vần thơ yêu đương chân thành giúp cho tình yêu đôi trẻ thêm phần thăng hoa, vượt qua mọi trở ngại, khó khăn “Cái kết quả đầu tiên của những công trình ấy, là ba tập thi văn mà tiên sinh gởi tặng cho người tình hồi tháng Chạp năm 1836, ba tháng sau khi tiên sinh tựu trường ở Đại học đường Bá Linh Đại học Berlin - NHS thêm. Tập đầu nhan đề Ca ngâm thi tập, tác giả Karl Marx, Bá Linh 1836 và hai tập sau Buch der Lieder, Ái tình thi tập, tác giả Karl Heinrich Marx, tháng mười một, năm 1836. Cũng trong năm ấy, lúc nghỉ hè ở thành Trêves, tiên sinh liền đính hôn bí mật với người yêu. Nhờ cái ái tình của đôi bên đã san sẻ cho nhau, tiên sinh sung sướng quá liền hăng hái ngâm vịnh thêm, bổ cứu lại những đoạn khuyết điểm trong mấy tập nói trên kia. Những tập ấy có đề mấy chữ như vầy “Kính tặng tình nương yêu quí Jenny de Westphalen”. Trong một bức thư của người chị tiên sinh gửi đến cho tiên sinh hay rằng, Jenny đọc những hàng chữ ấy thì cảm động quá, cười ra nước mắt”… Dựa trên các nguồn tư liệu từ tập sách tiểu sử xuất sắc Karl Marx The Story of His Life in lần đầu năm 1918 của Franz Mehring, Hàn Mặc Tử đã tỏ ý phản biện và đi đến khẳng định, nhấn mạnh tính chất sinh động, nồng nhiệt của thơ Karl Marx bằng chính bài thơ của Marx. Hàn Mặc Tử đặt câu hỏi phản vấn rồi khéo định hướng bạn đọc cùng trả lời “Trong tập Tiểu sử Karl Marx, Franz Mehring có phê bình rằng “Những tập thi của Marx có tính cách thiếu niên, đại để đều có chịu ảnh hưởng một thứ văn lãng mạn xấu xa nếu không thấy có những đoạn hay…”. Câu phẩm bình nghiêm khắc ấy có đúng với sự thật không? Xin mời độc giả hãy đọc thử bài thơ của tiên sinh sau đây Tôi không thể ngồi yên không hoạt động, Trong khi tâm hồn bồng bột như sóng. Tôi không thể tọa thị làm thinh, Khi muôn vật quyến rũ tôi vào trận đấu tranh. Tôi muốn chinh phục cả bầu vũ trụ, Nào hưởng lấy ân huệ của ngôi sao Thượng đế, Nào dung hòa những học thuyết trứ danh, Nào hy sinh với tất cả nghệ thuật trọn lành, Hăng hái ta mau sấn bước… Xem một đoạn trên này cũng đủ thấy tính cách thi văn của tiên sinh là ưa hoạt động biết dường nào”... Từ đây Hàn Mặc Tử lý giải cuộc đấu tranh tư tưởng trong Marx về mối quan hệ giữa niềm yêu thơ ca với sự nghiệp chính trị, giữa xúc cảm yêu đương cá nhân với cuộc tranh đấu vì tiến bộ xã hội, giữa sở thích nghệ thuật riêng tư với vận mệnh của cả thế giới loài người rộng lớn. Với những trích dẫn chọn lọc đặc sắc, Hàn Mặc Tử đi sâu phân tích, đúc kết ngắn gọn về khả năng tự phản biện, tự thức tỉnh, chuyển hóa nhằm xác định giá trị và lựa chọn lý tưởng sống “Một năm sau khi gởi tặng vị hôn thê những tập thi lần đầu thì tiên sinh hình như chán ngán với cái danh hiệu “thi sĩ”. Nhưng cũng may nhờ thân phụ tiên sinh viết thơ khuyến khích, nên tiên sinh trở lại âu yếm với Nàng Thơ, tình duyên chưa đến nỗi đoạn tuyệt. Lối tháng ba năm 1837, tiên sinh có viết câu “… Sau kỳ khảo hạch tôi lại đi tìm nàng Ly Tao trong những âm hưởng lâm ly hùng tráng”. Rồi tiên sinh lại nhìn đến những quyển thơ trước kia, tự phê bình rằng “Một mớ cảm tình phức tạp, không có gì là đặc sắc, toàn những câu ngâm huê vịnh nguyệt viển vông… Những tập thơ ấy là cái quan niệm về khoa ngôn ngữ hơn là những tư tưởng về thi văn”. Tự biết mình không thể đeo đai với nghề thơ, tiên sinh bèn đổ cho thơ văn là một món tiêu khiển tạm thời. Bắt đầu năm 1837, Karl Marx mới “ly dị” hẳn với Nàng Thơ. Vì tiên sinh lúc ấy chuyên chú về triết học, quyết tâm áp đảo tay địch thủ là Hegel”... Đến đoạn cuối, Hàn Mặc Tử cho biết trước sau Karl Marx vẫn không xa rời được thơ ca, không xa rời được nguồn sáng trào lưu lãng mạn do Goethe 1749-1832 khởi xướng từ vài ba thập kỷ trước. Điều này xác nhận thơ ca thuộc lĩnh vực tinh thần thực sự cao sang, trí tuệ, có giá trị và sức hấp dẫn riêng, cho đến chính Karl Marx vẫn mãi gắn bó “Thời kỳ ấy những thi ca bình dân rất thạnh hành ở nước Đức. Nhà thi sĩ Goethe lúc bấy giờ còn là học sanh ở Strasbourg, liền triệu tập một số danh nhơn trong khi du ngoạn ở Alsace và lập thành lối văn lãng mạn Ecole Romantique. Những nhà văn có tiếng tăm như Schlegel, Tieck, Novalis, Clemens, Brentano và Achim von Arnim, Eichendorf, đều có xuất bản nhiều tập thi ca… Bị phong trào lôi cuốn, Marx lại tham dự vào công cuộc ấy”... Hàn Mặc Tử cho đăng báo bài viết Karl Marx thi sĩ vào năm 1935, khi thi sĩ mới ngoài hai mươi tuổi, chưa thành danh, chưa xuất bản tập thơ nào. Bài báo thể hiện sự đồng điệu của hồn thơ Hàn Mặc Tử từ nước Việt thuộc địa phương Đông với tiếng thơ của người đứng đầu phong trào Cộng sản quốc tế. Qua sự kiện này có thể xác định Hàn Mặc Tử đã có sự hiểu biết quan trọng về cuộc đời, sự nghiệp và thơ ca Karl Marx. Điều quan trọng hơn, giữa vòng vây của chế độ kiểm duyệt đương thời, cây bút trẻ Hàn Mặc Tử vẫn có cách giới thiệu, tuyên truyền, đưa thơ Karl Marx và quan điểm nghệ thuật của Marx Trẻ đến với đông đảo công chúng bạn đọc. III. QUÁ TRÌNH TIẾP NHẬN HÀN MẶC TỬ QUA CÁC THỜI KỲ 1. Người đương thời tiếp nhận thơ Hàn Mặc Tử *** - Chương Đài Gái quê của Hàn Mặc Tử. Tràng An báo, số 178, ra ngày 1-12-1936, Chưa Foto… - Hàn Mặc Tử Những văn tài mới nở Chế Lan Viên − thi sĩ của vong quốc Chiêm Thành. Tràng An báo, số 235, ra ngày 6-7-1937, - Trần Thanh Địch Thi sĩ với ngày xuân. Tràng An báo, số 292, ra ngày 25-1-1938, - Một Nữ Thính Giả Bình Định lắm duyên với thi sĩ. Tràng An báo, số 326, ra ngày 3-6-1938, số 327, ra ngày 7-6-1938, số 328, ra ngày 10-6-1938, - Hoàng Diệp Một cái tang trong thi giới Hàn Mặc Tử đã từ trần ở Qui Hòa. Tràng An báo, số 610, ra ngày 26-11-1940, *** Một di cảo của Hàn Mặc Tử. Tràng An báo, số 610, ra ngày 26-11-1940, - Hoàng Diệp Thơ Hàn Mặc Tử dưới mắt tôi. Tràng An báo, số 681, ra ngày 24-2-1941, - Phất Văn Tử Một buổi diễn thuyết về Hàn Mặc Tử ở Hội Cercle d’etudes Qui Nhơn. Tràng An báo, số 847, ra ngày 13-9-1941, - Phó Xuyên Hà Xuân Tế Thi sĩ Hàn Mặc Tử. Tràng An báo, số 893, ra ngày 7-11-1941, - Tài Xuyên Mùa xuân với thi nhân. Tràng An báo, số 974, ra ngày 21-2-1942, số 975, ra ngày 23-2-1942, số 976, ra ngày 24-2-1942, số 977, ra ngày 25-2-1942, - Nguyễn Tiến Lãng Quyển Hàn Mặc Tử của Trần Thanh Mại. Tràng An báo Bộ mới, số 25, ra ngày 9-6-1942, - Nhân ngày đại tường của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Tràng An báo Bộ mới, số 87, ra ngày 14-11-1942, - Đỗ Hữu Phú Thi sĩ với mùa xuân. Tràng An báo, số 402 Bộ mới, ra ngày 8-2-1945, 2. Tiếp nhận Hàn Mặc Tử ở các vùng đô thị miền Nam 1945-1975 Có các tác giả Hoàng Trọng Miên, Châu Hải Kỳ, Nguyễn Văn Xê, Phạm Xuân Tuyển, Hoàng Diệp, Quách Tấn, Lê Huy Oanh, Nguyễn Kim Chương, Võ Long Tê, Phạm Đán Bình, Bùi Xuân Bào… 2. Tiếp nhận Hàn Mặc Tử ở miền Bắc 1945-1975 Chủ yếu phê phán, qui kết “cái tôi cá nhân”, “suy đồi”… 3. Tiếp nhận Hàn Mặc Tử từ thời Đổi mới 1986 đến nay Nhiều sách. Tập trung trong HMT – Về tác gia và tác phẩm Phan Cự Đệ và Nguyễn Toàn Thắng tuyển chọn, giới thiệu… Phụ lục - NHS Cảm quan Phật giáo trong sáng tác của Hàn Mặc Tử. Tạp chí Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh ISSN 1859-0136, số 7 239-2018, 1. Dựa trên hệ thống văn bản tác phẩm Hàn Mặc Mạc Tử hiện đã được xuất bản, cần ghi nhận và khẳng định trên hết, trước hết tinh thần Công giáo, niềm tin Kinh Thánh, sùng kính Đức Mẹ Maria chính là dòng mạch tư tưởng chủ đạo trong toàn bộ thi phẩm của ông . Đây là một lẽ hiển nhiên bởi Hàn Mặc Tử “thuộc gia đình Công giáo lâu đời, tên thánh rửa tội là Phêrô, thánh thêm sức Phanxico Xavie” , sau này vì những nỗi đau thể xác và tinh thần mà ông càng hằng sống trong nguồn sáng Chúa cứu thế an lành… 2. Nghiên cứu định lượng trường hợp thơ Hàn Mặc Tử có thể thấy một tỉ lệ nhất định những bài thơ, câu thơ, ý thơ và ngôn từ bộc lộ cảm quan Phật giáo xuất hiện bên cạnh dòng chủ lưu tâm linh Thiên Chúa giáo. Với hệ thống các bài thơ Chùa Ông Núi Phù Cát, Chùa hoang, Ngày xuân đi chơi đề thơ ở chùa, Gái ế chồng đi tu, Gái ở chùa, Ăn cơm chay trong chùa Ông Núi, Đêm ngủ trong chùa Ông Núi, Ngoạn cảnh chùa 2 bài, Huyền ảo, Cao hứng, Phan Thiết! Phan Thiết…, Hàn Mặc Tử đã thể hiện rõ cảm quan Phật giáo trong sáng tác của mình. Hiện tượng sáng tác giao thoa, tiếp nhận định hướng tư tưởng và cảm quan Phật giáo kiểu này càng trở nên độc đáo khi chúng ta biết rằng Hàn Mặc Tử là một tín đồ Thiên Chúa giáo và tác phẩm của ông cũng căn bản thuộc về nước Chúa… Tại mục bài Hàn Mạc Tử Nguyễn Trọng Trí in trong sách Nhà văn hiện đại Quyển ba. Nxb. Tân dân, Hà Nội, 1943, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan xác định “Thơ Đường luật của Hàn Mạc Tử không phải bài nào cũng được toàn bích như bài trên này Buồn thu – NHS chú. Nhiều bài ý cũng rất sáo và phảng phất có cái giọng thời thế, nửa lối Tú Xương, nửa lối Thanh Quan. Thí dụ bài sau này đăng trong Phụ nữ tân văn số 97-27 Aout 1931, trang 16 và ký tên là Qui Nhơn Chùa hoang Mái sụp, tường xiêu, khách ngẩn ngơ, Hỏi thăm duyên cớ, Phật làm lơ! Vắng sư bụt đá toan hồi tục, Lạnh khói hương cây sắp thoát chùa. Hoành cổ nhện giăng treo lỏng chỏng, Bình phong rêu bám đứng chơ vơ. Tiếng chuông tế độ rày đâu tá? Để khách trầm luân luống đợi chờ! Thơ Hàn Mạc Tử hồi đầu như thế, mà chỉ bảy tám năm sau đã thay đổi hẳn, thay đổi cả ý lẫn lời. Trong thời kỳ đổi mới này, ông soạn được rất nhiều thơ và chia ra nhiều tập Thơ Điên, Xuân như ý, Thượng Thanh khí, Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội” … Xin nói thêm, bài thơ Chùa hoang còn được Nguyễn Bá Tín 1915-?, em ruột Hàn Mặc Tử, giới thiệu với nhan đề Chùa Ông Núi Phù Cát trong khi ông lại đưa ra một bài Chùa hoang khác, sẽ nói sau, chỉ sai khác có hai chữ trong câu mở đầu Mái dột tường xiêu liễu ngẩn ngơ , Hỏi thăm duyên cớ Phật làm lơ. Vắng sư bụt đá toan hồi tục, Lạnh khói hương cây sắp thoát chùa . Hoành cổ nhện giăng treo lỏng chỏng, Bình phong rêu bám đứng chơ vơ. Tiếng chuông tế độ rày đâu đó, Để khách trầm luân luống đợi chờ. Chùa Ông Núi Phù Cát Bài thơ đề vịnh cảnh “chùa hoang” - chùa Ông Núi, nơi thi sĩ từng đến viếng cảnh, ăn cơm chay và ngủ lại. Đến nơi đây, thi sĩ chạnh lòng trước qui luật thời gian, trước cảnh vật đổi sao dời, bày tỏ nỗi niềm bâng khuâng về giới hạn con người trước cõi Phật, đất trời, vũ trụ… Vào chặng đường sáng tác thứ nhất, tức trước khi xuất bản tập Gái quê 1936, Hàn Mặc Tử có nhiều bài thơ in đậm cảm quan Phật giáo, vừa gắn bó với cảnh chùa vừa bộc lộ suy tư trước Phật đài, cõi Phật và lẽ sắc sắc – không không nhà Phật. Hàn Mặc Tử từng đi du xuân, vãn cảnh và đề vịnh cảnh chùa theo phong cách truyền thống. Thi sĩ đến với cửa chùa trong tư cách người du ngoạn, bỡ ngỡ khám phá cảnh quan ngôi chùa tựa như cõi Thiên Thai bồng lai tiên cảnh và viết bài thơ đề vịnh liên hoàn gồm bốn khúc tứ tuyệt I Tức cảnh đề thi trước cửa chùa, Mỹ nhân năm ngoái lạc vào chùa. Quanh hồ cỏ mọc hoa sen vắng, Phưởng phất mùi hương ngọn gió đưa. II Gió đưa tiếng kệ thoảng bên tai, Đề vịnh tiêu dao trước Phật đài. Nét chữ đan thanh còn rỡ rỡ, Phong lưu gấp mấy bạn Thiên Thai. III Một năm tu đến một lần thôi, Một bữa cơm chay cũng khó coi. Một chén trà dâng chưa phải cách, Một câu mô Phật, một câu mời. IV Êm đềm mát mẻ khí ban mai, Đến Phật nghe câu sướng lỗ tai, Bảy bước thành thơ mau mắn lạ, Ra về tưởng lạc lối Thiên Thai. Ngày xuân đi chơi đề thơ ở chùa Trong một bài thơ thất ngôn, với bút danh Lệ Thanh, Hàn Mặc Tử đã qui nạp và phán xét trường hợp một người được,/ bị xem là gái ế chồng nên phải đi tu, coi chuyện đi tu cũng là một lối giải thoát. Có thể xem đây như cách cảm nhận của kẻ trần tục, kẻ khác, người đứng bên lề Phật giáo mà cảm nhận, soát xét, qui kết chuyện tu hành qua một trường hợp giả định Đem cánh xuân tàn gởi cửa không, Hôm mai kinh kệ cũng thay chồng. Sạch miền tục lụy giòng khe chảy, Tàn khối chung tình tiếng mõ buông. Hương lửa ba sinh nguyền với Phật, Nước non một cảnh chứng cho lòng. Ngành dương tưới mát cành hoa héo, Nào bận trần ai chút bụi hồng. Gái ế chồng đi tu Bài thơ nhận được sự quan tâm, tán thưởng trong dư luận. Chỉ hai tuần sau đã có Hồ Thế Hiệp từ Đà Lạt gửi bài thơ họa và cũng cùng một cách cảm, cách nghĩ Từ bi hai chữ thiệt hay không? Có ế thì rao há chẳng chồng. Thóa cách tục trần theo giải cấm, Qui y cửa Phật bỏ nhà buôn. Bồ đề một chuỗi lần đòi bữa, Kinh kệ vài câu niệm thuộc lòng. Đầu trọc cũng vì chưng Nguyệt lão, Không xe nỏ chắp mối tơ hồng. Họa vận bài “Gái ế chồng đi tu” Hai năm sau, cùng trong một số báo, Hàn Mặc Tử có liền bốn bài thơ liên quan đến Phật giáo, chuyện tu hành và cảnh chùa. Thi sĩ lại có dịp bàn về chuyên đề nữ giới tu hành in đậm tư duy thế sự, con người thế sự, góc nhìn và thước đo thế sự phàm trần. Bài thứ nhất thiên về đoán định thân phận người phụ nữ ở chùa hơn là diễn tả tâm trạng chúng sinh nhập cuộc cảnh chùa Rừng thiền thấp thoáng dạng quần thoa, Khuê các mà ra đến nỗi à! Cuộc thế chưa chi mà vội chán, Trò đời mới đó đã lo xa. Lợt mùi son phấn say mùi đạo, Chán cảnh phiền ba mến cảnh chùa. Bà Nguyệt trớ trêu lòng dạ thiểm, Xuân xanh nỡ để thiệt thòi hoa! Gái ở chùa Theo Phan Cự Đệ, bài thơ này từng in trên Thực nghiệp dân báo ở Sài Gòn số ra ngày 11-10-1931, có sai khác tới 14 chữ … Điều đặc biệt là cùng trang trên số báo Công luận này lại đăng ngay bài họa của nhà chí sĩ Phan Bội Châu 1867-1940, ký bút hiệu Sào Nam, ghi rõ là “Họa nguyên vận” Bản lai không vết cậy gì thoa, Há gặp đâu thì cũng thế à! Một chữ đã đành thân gắn bó, Trăm năm phải tính cuộc gần xa. Tủi vì cái kiếp con không mẹ, Hổ cũng như ai sãi có chùa. Khuya sớm hương tâm nguyền với Phật, Ngành dương mưa rưới vạn ngàn hoa! Thú vị hơn nữa là dưới nhan bài thơ Gái ở chùa của Hàn Mặc Tử có lời chú “Hai bài nầy chúng tôi đã đăng ở Thực nghiệp dân báo năm 1930. Rồi đây chúng tôi sẽ lần lượt tái đăng những bài xướng họa của cụ Sào Nam”. Cách duy danh “chúng tôi” ở đây hàm nghĩa đại diện cho cả Sào Nam Phan Bội Châu. Điều này xác định mối giao hảo thâm tinh giữa thi sĩ trẻ Hàn Mặc Tử với bậc chí sĩ - nhà thơ túc nho Sào Nam danh tiếng lẫy lừng, đồng thời cho biết cả hai bài thơ đều đã được in trên Thực nghiệp dân báo từ 5 năm trước. Vẫn chưa hết, ngay trên báo Công luận số này còn có thêm bài họa vần của nhà thơ chuyên Đường thi Quách Tấn 1910-1992 nổi tiếng Lược chẳng cài mà phấn chẳng thoa, Cửa không đành khép cánh xuân à! Gió thông đưa kệ mùi hương thoảng, Vóc liễu gầy sương bóng nhạn xa. Duyên nợ chồng con tràng chuối hột, Chuyện trò hôm sớm tiếng chuông chùa. Khuya sớm hương tâm nguyền với Phật, Đã tu thôi gắng tu cho trọn, Chớ để tòa sen bướm lộng hoa. Họa vận Ở bài thứ hai, Hàn Mặc Tử viết về cảnh chùa với tâm thức ngờ vực, nghi ngại và chiêm nghiệm về ngôi chùa như một sự tàn cuộc Chùa không sư tụng cảnh buồn teo, Xác Phật còn đây chuỗi Phật đâu? Réo rắt cành thông thay mõ đánh, Lập lòe bóng đóm thế đèn treo. Hương sầu khói lạnh nằm ngơ ngác, Vách chán đêm suông đứng dãi dầu. Rứa cũng trơ gan cùng tuế nguyệt, Bên thềm khắc khoải giọng quyên kêu. Chùa hoang Theo Phan Cự Đệ, bài này từng in trên Thực nghiệp dân báo ở Sài Gòn, số ra ngày 11-10-1931 … Nguyễn Bá Tín lại cung cấp một văn bản khác … Bài thơ này có chung nhan đề như Vũ Ngọc Phan đã dẫn nhưng khác hẳn về câu chữ. Ngay dưới bài thơ Chùa hoang của Hàn Mặc Tử trên báo Công luận có liền hai bài họa. Thứ nhất là bài của Phan Bội Châu với nhan đề Cụ Sào Nam họa chắc do tòa soạn đặt Ba vạn giang sơn chút tẻo teo, Ai dò bể Phật đến nguồn đâu! Kệ thần mặc ý trong lòng niệm, Đèn tuệ tha hồ trước gió treo. Bờ nọ thuyền đưa dòng họ tới, Trời nầy mưa khóc cỏ cây rầu, Xưa nay Phật pháp vô biên lượng, Muôn nước ngàn non một tiếng kêu. Cụ Sào Nam họa Thứ hai là bài thơ với nhan đề Họa vận của Đoàn Tá, cuối bài có ký chú “Phan Thiết” sáng tác ở Phan Thiết? người Phan Thiết và sáng tác ở Phan Thiết? Quang cảnh chùa nầy ngó vắng teo, Hoang vu như thế bởi vì đâu? Nhà tăng thềm mốc ba căn trống, Tượng Phật tường rêu một bức treo. Đại xá cần chi đem lễ lạc, Âm phò xin chớ nệ hương dầu! Thập phương ai kẻ lòng từ thiện, Nỡ để quanh chùa tiếng dế kêu. Họa vận Truy tìm tiếp các nguồn tư liệu thì thấy bài thơ Chùa hoang của Hàn Mặc Tử sau khi in trên Thực nghiệp dân báo 1931 và trước khi in trên Công luận 1935 còn được in trong mục Văn uyển trên báo Phụ nữ tân văn với bút danh “ Qui Nhơn” là viết tắt bút danh Phong Trần của Hàn Mặc Tử, trong đó có sự sai khác 8 chữ so với bài in Công luận Chùa không sư tụng cảnh buồn teo, Xác Phật còn đây chuỗi Phật đâu? Réo rắc cành thông thay tiếng kệ, Lập lòe bóng đóm thế đèn treo. Hương rầu khói lạnh nằm ngơ ngác, Vách chán đêm suông đứng dãi dầu. Thế cũng trơ gan cùng tuế nguyệt, Trước thềm khoắc khoải dọng quyên kêu. Chùa hoang Như vậy, riêng bài thơ Chùa hoang của Hàn Mặc Tử đã in trên ba tờ báo khác nhau cùng xuất bản ở Sài Gòn vào ba năm khác nhau 1931, 1932, 1935 và hai lần có in bài người họa 1931 Quách Tấn, 1935 Sào Nam, Đoàn Tá… Trong bài thứ ba, Hàn Mặc Tử tả thực, kể thực và nói thật chuyện ăn cơm chay ở một ngôi chùa cụ thể Ngọt ngon từng trải nếm chay chùa, Lạt lẽo dầu sao cũng gắng lua. Nhưng mới “và” sơ nghe đã ớn… Nước gì nếm thử thấy chua chua. Ăn cơm chay trong chùa Ông Núi Đến bài thứ tư, bài cuối cùng trong chùm bài viết về cảnh chùa, Hàn Mặc Tử tiếp tục tả thực và diễn tả tâm thế thử nhập cuộc vào thế giới nhà Phật, rút cuộc vẫn tỉnh trơ trong cõi đời thường nhật Đặt mình xuống phản đã chiêm bao, Thế giới ba ngàn ngó lạ sao!... Bay thoảng mùi hương thơm ngạt mũi, Té ra cửa Phật có hoa đào!... Đêm ngủ trong chùa Ông Núi Trên thực tế, chùa Ông Núi là cách gọi Nôm của thiền tự Linh Phong thôn Phương Phi, xã Cát Tiến, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Chùa có địa thế “Tọa sơn vọng hải”, tính đến nay đã có lịch sử trên ba trăm năm. Dấu tích chùa Ông Núi trải qua chiến tranh chống Mỹ khốc liệt chỉ còn lại hang Tổ nằm trên lưng chừng núi Chóp Vung. Chùa mới được xây dựng lại với qui mô lớn, trong đó có tượng Phật ngồi đúc xi măng cốt thép bề thế bậc nhất Đông Nam Á và đã được xếp hạng di tích Lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia. Với Hàn Mặc Tử, thi sĩ đã có riêng ba bài viết về chùa Ông Núi – Linh Phong, biểu cảm tiếng nói một người có cơ duyên với Phật giáo, chủ động hòa nhập với cuộc sống tu hành và gián cách rút ra bài học cần thiết về đức tin, lẽ sống, kinh nghiệm sống cho riêng mình. Trong một trường hợp khác, với bút danh Lệ Thanh, Hàn Mặc Tử có bài thơ Ngoạn cảnh chùa theo thể Đường luật bát cú in trên báo Sài Gòn số ra ngày 18-11-1935 Đề huề trăng gió đến Thiên Thai, Cảnh trí thần tiên bước lạc loài. Ngắm nghía non sông, vầng khói tỏa, Vạch vùng hoa cỏ, hạt sương rơi. Cây sum suê lá, chùa nương bóng, Suối láng lai dòng, khách rửa tai. Phàm tục đến đây nhờ Phật độ, Đừng vương vấn nữa nợ trần ai. Ngoạn cảnh chùa Ngay sau đó, cuối bài hát nói Ngoạn cảnh chùa in trên báo Sài Gòn, cũng với bút danh Lệ Thanh, Hàn Mặc Tử có thêm ký chú “Đề tại chùa Ông Núi. Mùa hè năm 1930”. Có thể xác định bài thơ đã in đâu đó hoặc mấy năm sau mới đưa in trên báo Sài Gòn số ra ngày 28-11-1935 Khách trần rẽ lối Thiên Thai, Cỏ hoa lạ mặt tươi cười làm quen. Xinh thay phong cảnh rừng thiền, Bầu sen hương ngát cạnh đền suối reo. Nói Bích Khê động khẩu, ưng trường tại, Khách trần ai bước tới ngỡ non tiên. Thấy hoa cỏ lạ muốn làm quen, Lòng thấm thía mùi thiền như thoát tục. Thủy nhiễu môn tiền ba lộng nguyệt, Phong lai lâm hạ ảnh phiêu dương. Chuông tế độ thức tỉnh bạn văn chương, Bầu trăng gió dễ thường quên nhắm nhía. Im mát bóng đàm hoa phước địa, Phật Quan Âm rừng tía có linh thiêng. Xuống đây ngoạn cảnh thiên nhiên. Ngoạn cảnh chùa Có thể thấy cả hai tác phẩm sau này đều in đậm cảm quan Phật giáo nhưng đan xen trong đó là cảm xúc hòa hợp với môi trường thiên nhiên, cảnh sắc trời mây, núi non, cây cỏ. Hàn Mặc Tử hòa nhập với “lối Thiên Thai”, đất trời “cảnh trí thần tiên” và muốn kéo cả cõi Phật về thực tại phàm trần Phật Quan Âm rừng tía có linh thiêng./ Xuống đây ngoạn cảnh thiên nhiên… Có thể xác định và khẳng định tiến trình phát triển nguồn sáng tâm linh trong thơ Hàn Mặc Tử đã từ chỗ dung hòa đến nhấn mạnh, chuẩn hóa, linh hóa niềm tin Thiên Chúa. Có thể ghi nhận hiện tượng này như một sự lựa chọn đức tin của cá nhân Hàn Mặc Tử cũng như tương quan Phật giáo – Thiên Chúa giáo trong tổng thành đời sống tư tưởng tâm linh Hàn Mặc Tử. Ý kiến của nhiều thế hệ nhà nghiên cứu về Hàn Mặc Tử Chế Lan Viên, Quách Tấn, Nguyễn Văn Xê, Trần Thanh Mại, Hoài Thanh – Hoài Chân, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Bá Tín, Yến Lan, Trần Thanh Địch, Hoàng Diệp, Nguyễn Minh Vỹ, Nguyễn Viết Lãm, Phạm Đán Bình, Phan Xuân Sanh, Nguyễn Tấn Long, Phan Cự Đệ, Võ Long Tê, Lê Huy Oanh, Phạm Đình Khiêm, Nguyễn Thị Tuyệt, Lê Tuyên, Bùi Tuân, Đặng Tiến, Thái Văn Kiểm, Trăng Thập Tự, Lê Văn Lân, Trần Cao Tường, Lê Đình Bảng, Vương Trí Nhàn, Đỗ Lai Thúy, Bích Thu,… đã cho thấy rõ điều này. Vào khoảng giữa năm 1941, Hoài Thanh - Hoài Chân đã lọc trong muôn một nẻo đường tư tưởng thơ Hàn Mạc Mặc Tử rồi đi đến xác quyết nội dung tâm linh tập thơ Xuân như ý trong tổng thành một sự nghiệp thi ca “Hàn Mạc Tử đã dựng riêng một ngôi đền để thờ Chúa. Thiếu lòng tin, tôi chỉ là một du khách bỡ ngỡ không thể cùng quỳ lạy với thi nhân. Nhưng lòng tôi có dửng dưng, trí tôi làm sao không ngợp vì cái vẻ huy hoàng, trang trọng, linh lung, huyền ảo của lâu đài kia? Có những câu thơ đẹp một cách lạ lùng, đọc lên như rưới vào hồn một nguồn sáng láng. Xuân như ý rõ ràng là tập thơ hay nhất của Hàn Mạc Tử. Với Hàn Mạc Tử Chúa gần lắm. Người đã tìm lại những rung cảm mạnh mẽ của các tín đồ đời Thượng cổ. Ta thấy phảng phất cái không khí Athalie. Cho nên mặc dầu thỉnh thoảng còn sót lại một hai dấu tích Phật giáo, chắc những người đồng đạo chẳng vì thế mà làm khó dễ chi với dị thảo của thi nhân. Hưống chi thơ Hàn Mạc Tử ra đời, điều ấy chứng minh rằng đạo Thiên Chúa ở xứ này đã tạo ra một cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ. Tôi tin rằng chỉ những tình cảm có thể diễn ra thơ mới thiệt là những tình cảm đã thấm tận đáy hồn đoàn thể” . Một nhà phê bình nổi tiếng đương thời là Vũ Ngọc Phan cũng đánh giá cao tiếng thơ chí thành tụng ca đạo Gia Tô và khẳng định vị thế nguồn cảm hứng mới trong nền thơ triết học, thần học, tôn giáo, tâm linh hiện đại “Sự tín ngưỡng đã giúp sức cho Hàn Mạc Tử rất nhiều. Có lẽ ông là người Việt Nam ca ngợi thánh nữ đồng trinh Marie và chúa Jésus bằng thơ trước nhất. Ông ca tụng đạo Gia Tô một giọng rất chân thành, chẳng khác nào một thi sĩ Âu Tây. Lần này cũng là lần đầu, thi ca Việt Nam thấy được một nguồn hứng mới… Thơ tôn giáo đã ra đời với Hàn Mạc Tử. Tôi dám chắc rồi đây còn nhiều thi sĩ Việt Nam sẽ tìm nguồn hứng trong đạo giáo và đưa thi ca vào con đường triết học, con đường rất mới, rất xa xăm, mà đến nay chưa mấy nhà thơ dám bước tới” … Cho dù có người như nhà thơ Quách Tấn 1910-1992 nhiệt tình bênh vực, khẳng định cho một tâm thế Phật trong thơ Hàn Mặc Tử “Trong thơ Hàn Mạc Tử có nhiều bài ảnh hưởng cả hình thức lẫn tinh thần Phật giáo. Ví dụ bài Phan Thiết! Phan Thiết! Nhớ khi xưa ta là chim Phượng Hoàng Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất Bay từ Đao Ly đến trời Đâu suất! Ngoài những ngôn ngữ phổ thông của nhà Phật như “thành chánh quả”, “Sông Hằng”, ngoài những hình ảnh tươi đẹp của trời “Đao Ly”, trời “Đâu Suất” – những cõi Phật xa xăm đầy nhạc, đầy hương, đầy ánh sáng – “chúng ta nhận thấy trong bài Phan Thiết, thuyết nghiệp báo và thuyết luân hồi được thi vị hóa một cách tài tình... Tử đi tìm nơi giải thoát và đã tìm thấy Cực Lạc Quốc Độ của Phật A Di Đà... Những ánh sáng vô cùng, những “tiếng nhạc thiêng liêng dồn trỗi khắp hư linh”, những “điệu nhạc rất trọng vọng, rất thơm tho, man mác”, “cây bằng gấm và lòng sông bằng ngọc” ở trong thơ Tử là vang bóng của vô lượng quang trên Thế Giới Cực Lạc mà Tử đã nhìn qua Kinh A Di Đà” … Và cho dù thêm một lần Trần Thị Huyền Trang phác ghi lại ký ức của Quách Tấn về câu chuyện nghĩa tình khói sương Hàn Mặc Tử - ni cô, hay là góp thêm một giai thoại về thơ Hàn “Ở chùa Liên Tôn thuộc huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, có một nữ tu nhan sắc kiều diễm thùy mị, tư chất quang minh, sở học không thua kém hàng nam nhi đương thời, xuất gia đầu Phật khi tuổi còn đôi tám. Nàng là cháu gái của vị sư cụ trụ trì trước đó thường gọi là thầy tú Liên Tôn thế danh Võ Trấp, 1891-1951; NHS thêm, được sư cụ thương chiều, thường cho phép cùng tiếp khách trí thức mà phần đông là chỗ bà con họ hàng đến viếng cảnh chùa, đàm đạo thơ văn. Nhà thơ Quách Tấn, cháu gọi nữ tu bằng cô họ xa, là một trong số các bậc trí thức đã cùng nàng tương kiến. Ngoài thời gian kinh kệ công phu, nữ tu chuyên tâm đọc sách. Nàng rất nhạy bén với các tên tuổi văn chương ở quê hương thời ấy như Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Chế Lan Viên… Song biết để biết thế thôi, cái khoảng cách nhất định giữa màu thiền và màu thế không cho phép nàng giao du rộng rãi với các nhà thơ trẻ cùng thời. Song có một lần, nàng chủ động đến gặp Hàn Mặc Tử. Những bài thơ tài hoa và phóng túng, những giai thoại lưu truyền trong vòng thân mật bạn bè và tính tình, tư chất và hoàn cảnh của nhà thơ trẻ tuổi tài cao này đã làm nữ tu chú ý. Tuy vậy, nàng chưa một lần tìm cơ hội tiếp xúc. Thế rồi một hôm nữ tu rời chùa Liên Tôn xuống Quy Nhơn, nàng tình cờ gặp nhà thơ Quách Tấn. Được biết Quách Tấn sắp vào thăm Hàn Mặc Tử, nữ tu xin cùng đi. Hàn Mặc Tử tiếp đón rất ân cần và đàm đạo với nữ tu về đạo Phật rất tương đắc. Khi nữ tu ra về, Hàn Mặc Tử nói riêng với nhà thơ Quách Tấn - Anh ạ, thật là một tấm lòng trong, thơm và rộng lớn. Từ đó, không một lần tái ngộ. Nhưng cuộc gặp gỡ và chuyện trò đặc biệt ấy đã để lại trong lòng Hàn Mặc Tử nhiều xúc động và những ấn tượng khó quên. Thi sĩ đã nhắc đến hai tiếng ni-cô với thái độ trang trọng và yêu kính xa xôi trong những vần thơ êm ả nhất của mình. Trong Huyền ảo, nhà thơ viết Mới lớn lên trăng đã thẹn thò Thơm như tình ái của ni cô Gió say lướt mướt trong màu sáng Hoa với tôi đều cảm động sơ. Và trong bài Cao hứng Thơ tôi thương huyền diệu Mọc lên đạo Từ Bi Tôi bắt chước Hy Di Ngủ một trăm ngày dậy… … Cho tôi hoa đền Ngự Cho tôi lòng ni cô Xuân trên má nàng thơ Ngon như tình mới cắn. Đó là những bài thơ phản chiếu tâm hồn Hàn Mặc Tử trong những lúc nguôi dịu bi thương, khi nỗi đau đớn của thể xác, nỗi bức bối đến điên cuồng của tinh thần tạm thời lắng xuống. Đó là lúc lòng chàng tựa vào kỷ niệm, tựa vào thơ và những ước ao trong sáng để tìm nguồn an ủi vô biên. Có lẽ khi trở về với giọt nước cành dương, người nữ tu có thêm một chút xót xa về con người hiện hữu, một tình thương đầy sự chia sẻ cụ thể đối với người thi sĩ tài hoa mệnh bạc Hàn Mặc Tử. Cùng tiếng kệ lời kinh, người nữ tu tựa vào số kiếp ấy, nguyện cầu cho thơ” … Trên thực tế kết quả sưu tập, phát hiện văn bản cũng như chính nội dung tác phẩm có thể thấy Hàn Mặc Tử đã thể hiện khá rõ cảm quan Phật giáo, bộc lộ sắc nét bản tính khoan dung, dung hợp mỹ cảm Phật giáo, khả năng tiếp nhận, chấp nhận, đan kết tư tưởng phương Đông và phương Tây, truyền thống và hiện đại … 3. Lời kết mở Rút cuộc, nhiều ít có thể chia xẻ ý kiến “Có một sự tranh chấp Hàn Mạc Tử giữa những tín đồ đạo Thiên Chúa và đạo Phật… Cũng một bài Tựa Xuân như ý cùng một số bài thơ như Ra đời, Điềm lạ, Xuân đầu tiên mà mỗi người giải thích một cách” … Tuy nhiên ở đây, theo tôi, cần đặc biệt nhấn mạnh việc xác định đặc điểm và tiến trình phát triển thiên hướng tôn giáo qua trường hợp Hàn Mặc Tử quyết không nhằm phân biệt, phân chia, định dạng sự hơn thua, cao thấp. Xét trong bản chất, khả năng dung hợp Phật giáo và sự lựa chọn niềm tin Thiên Chúa chỉ càng góp phần làm sáng lên phẩm chất nhân văn của Hàn Mặc Tử và thơ Hàn Mặc Tử. Hà Nội, tháng 7-2018 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Xin xem Trần Quang Chu Sưu tầm và khảo cứu [2018], Thơ văn Hàn Mạc Tử. Nxb Văn học, Hà Nội, 668 trang. 2. Phan Cự Đệ [2002], Hàn Mặc Tử - Tác phẩm, phê bình và tưởng niệm. Nxb Văn học, Hà Nội. 3. Hồ Thế Hiệp [1933], Họa vận bài “Gái ế chồng đi tu”. Công luận, số 6221, ra ngày 9-4. 4. Vũ Ngọc Phan [2000], Hàn Mạc Tử Nguyễn Trọng Trí. Nhà văn hiện đại, Tập 4. Tái bản. Nxb Văn học, Hà Nội. 5. Nguyễn Hữu Sơn [2014], Thơ Hàn Mặc Tử trên báo Công luận. Tạp chí Thơ, số 1+2. 6. Nguyễn Hữu Sơn 2017 Thơ mới những chuyện chưa bao giờ cũ – Người đương thời Thơ mới bàn về tác gia Thơ mới. Nxb Văn học, Hà Nội. 7. Nguyễn Thanh Tâm [2014], Đọc “Có một vườn thơ đạo”. Nghiên cứu Văn học, số 10. 8. Quách Tấn [1935], Họa vận. Công luận, số 6778, ra ngày 9-3. 9. Quách Tấn [1969], Ảnh hưởng đạo Phật trong thơ Hàn Mạc Tử. Tập san Niềm thương, Bộ mới Nha Trang, số 13-14.. 10. Hoài Thanh - Hoài Chân [1998], Thi nhân Việt Nam, 1932-1941. Tái bản. Nxb Văn học, Hà Nội. 11. Lệ Thanh [1933], Gái ế chồng đi tu. Công luận, số 2610, ra ngày 26+27-3. 12. Nguyễn Bá Tín [1991], Hàn Mặc Tử anh tôi. Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 13. Nguyễn Bá Tín [1994], Hàn Mặc Tử trong riêng tư. Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 14. Nguyễn Bá Tín [2015], Hàn Mặc Tử trong riêng tư. Nguồn 25 thg 5 15. Trần Thị Huyền Trang Sưu tầm và biên soạn [1991], Hàn Mặc Tử - Hương thơm và mật đắng. Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 16. Hàn Mặc Tử [1935], Chùa hoang. Công luận, số 6778, ra ngày 9-3. 17. Hàn Mặc Tử [1933], Ngày xuân đi chơi đề thơ ở chùa. Công luận, số 2587, ra ngày 26+27-2. 18. Hàn Mặc Tử [1935], Gái ở chùa. Công luận, số 6778, ra ngày 9-3. 19. Hàn Mặc Tử [1932], Chùa hoang. Phụ nữ tân văn, số 122, ra ngày 10-3. 20. Hàn Mặc Tử [1935], Ăn cơm chay trong chùa Ông Núi. Công luận, số 6778, ra ngày 9-35. 21. Hàn Mặc Tử [1935], Đêm ngủ trong chùa Ông Núi. Công luận, số 6778, ra ngày 9-3. 22. Hàn Mặc Tử [1994], Chùa Ông núi Phù Cát. Dẫn theo Nguyễn Bá Tín Hàn Mặc Tử trong riêng tư. Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội… CÙNG MỘT TÁC GIẢ 1. Nguyễn Hữu Sơn [2012], Hàn Mặc Tử bàn về Thơ mới giữa đương thời Thơ mới. Tân Trào, số 327, ra kỳ 1-8-2012, 2. Nguyễn Hữu Sơn [2014], Thơ Hàn Mặc Tử trên báo Công luận. Tạp chí Thơ, số 1+2, 3. Nguyễn Hữu Sơn 2017 Thơ mới những chuyện chưa bao giờ cũ – Người đương thời Thơ mới bàn về tác gia Thơ mới. Nxb Văn học, Hà Nội. 4. Nguyễn Hữu Sơn 2018 Thi sĩ Hàn Mặc Tử với Kar Marx. Tạp chí Kiến thức Ngày nay, số 999, ra ngày 10-5-2018, Văn nghệ Hội Nhà văn VN, số 19, ra ngày 12-5-2018, 5. Nguyễn Hữu Sơn 2018 Cảm quan Phật giáo trong sáng tác của Hàn Mặc Tử. Tạp chí Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh ISSN 1859-0136, số 7 239, 6. Nguyễn Hữu Sơn 2018 Cảm quan Phật giáo trong thơ Hàn Mặc Tử. Tạp chí Kiến thức Ngày nay, số 1008, ra ngày 10-8,
Đọc văn§©y thnVÜ D¹- Hàn Mặc Tử-Đây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử hiểu giảNhóm 1Tìm hiểu về cuộc đời củaHàn Mặc Tử?Nhóm 2Tìm hiểu về sự nghiệp vănhọc của Hàn Mặc Tử?Đây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử hiểu giảCuộc đờiTên thật Nguyễn Trọng Trí 1912 – 1940Quê làng Mĩ Lệ, tổng Võ Xá, huyện PhongLộc, tỉnh Đồng HớiSố phận đau thương và bất hạnhSựnghiệpvănhọcMộ Hàn Mặc TửĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử hiểu giảCuộc đờiTên thật Nguyễn Trọng Trí 1912 – 1940Quê làng Mĩ Lệ, tổng Võ Xá, huyện PhongLộc, tỉnh Đồng HớiSố phận đau thương và bất hạnhNhà thơ lạ nhất trong phong trào Thơ thơ tài hoa, có sức sáng tạo mạnh thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại vàđau đớnTác phẩm chính SGKĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử hiểu giả2. Tác phẩma. Xuất xứ rút từ tập Thơ điên 1938b. Hoàn cảnh ra đờiBài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn MặcTử với một cô gái quê Vĩ Thị Kim CúcĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử hiểu giả2. Tác phẩmCâu hỏi trắc nghiệmDòng nào dưới đây nhậnxét đúng về âm điệu bài thơ?Trầm hùng, bi phẫn, trang trọnga. Xuất xứb. Hoàn cảnh ra đờic. ĐọcHào hùng, khoan thai, dõngdạcNhẹ nhàng, da diết, khắckhoảiChậm, buồn, ảo não, nghẹnngàoĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử hiểu giả2. Tác phẩma. Xuất xứb. Hoàn cảnh ra đờic. ĐọcNhẹ nhàng, da diết,khắc khoảiSao anh không về chơi thôn Vĩ?Nhìn nắng hàng cau nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ theo lối gió, mây đường mâyDòng nước buồn thiu hoa bắp layThuyền ai đậu bến sông trăng đóCó chở trăng về kịp tối nay?Mơ khách đường xa, khách đường xaÁo em trắng quá nhìn không raỞ đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà?Đau thương, NXB Hội Nhà vănĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử hiểu giả2. Tác phẩma. Xuất xứCâu hỏi trắc nghiệmĐề tài của bài thơ làTình yêu quê hương đất nướcb. Hoàn cảnh ra đờic. Đọcd. Đề tàiTình yêu thiên nhiênTình yêu lứa đôiÝ kiến khácĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc TửII. Đọc hiểu văn bản1. Khổ 1Sao anh không về chơi thôn Vĩ?Hình thứcChủ thểCâu hỏi tu từNgười con gái xứ HuếHàn Mặc TửGiãi bàyMời mọcKhát khao, hi vọngTrách cứ nhẹ nhàngNuối tiếc, bất lựcTình yêu tha thiết với cuộc đời,Thấp thoáng một chút đau ảnh con người Nhóm 3Con người thôn Vĩ được táihiện qua những hình nào?Cảm nhận về vẻ đẹp conngười xứ Huế qua những hìnhảnh đó?Cảnh vườn thôn Vĩ Nhóm 1Cảnh vườn thôn Vĩ được miêu tả quanhững hình ảnh nào? Cảm nhận củaanh chị về cảnh vườn tược thôn VĩDạ?Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lênVườn ai mướtquáKhổ1 xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ ra những đặc sắc nghệthuật được tác giả sử dụng đểtái hiện lại bức tranh thôn Vĩ?Nghệ thuật Nhóm 2Cảnh vườn thôn Vĩ Hoà quyện,quấn quít“Xanh như ngọc” thuần khiết, quý giá nhưmột viên ngọc. Trong sáng, lung linh,Đằngtràn đầy sức sốngKhổ 1saubức tranhthôn Vĩ, emcảm nhậnđiều gì vềtâm trạngcủa nhà thơ?Điệp từ “nắng” nắng trànngập, nắng chan chứa, khuvườn bừng lên trong từ “mướt” non tơ, nõn nàSo sánh “Xanh như ngọc” tô đậm vẻ đẹp nõn nà, thuầnkhiết của cây thuậtTâm trạng của nhà thơ“Lá trúc che ngang” duyên dáng, e lệ, kínđáo,“Mặt chữ điền” phúc hậu, trangtrọng, quý mới lên nắng sớm, nhẹ, trong, tươi tắn- Niềm vui, ngưỡng mộ, rạo rực, đắm sayHình ảnh con ngườiNắng hàng cau tinh khôi, tinh khiết, long lanhĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc TửII. Đọc hiểu văn bản1. Khổ 1Nhìn nắng hàng cau nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ vườn thôn Vĩ Hoà quyện,quấn quíttràn đầy sức sốngKhổ 1Điệp từ “nắng” nắng trànngập, nắng chan chứa, khuvườn bừng lên trong từ “mướt” non tơ, nõn nàSo sánh “Xanh như ngọc” tô đậm vẻ đẹp nõn nà, thuầnkhiết của cây thuậtcủa nhàTâmtrạngtrạng củathơnhàthơTâm“Xanh như ngọc” thuần khiết, quý giá nhưmột viên ngọc. Trong sáng, lung linh,- Niềm vui, ngưỡng mộ, rạo rực, đắm say“Lá trúc che ngang” duyên dáng, e lệ, kínđáo,“Mặt chữ điền” phúc hậu, trangtrọng, quý mới lên nắng sớm, nhẹ, trong, tươi tắn- Phảng phất chút ngậm ngùi,nuối tiếc, nhớ ảnh con ngườiNắng hàng cau tinh khôi, tinh khiết, long lanhĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc TửII. Đọc hiểu văn bản1. Khổ 1Tiểu kếtBức tranh xứ Huế trong buổi bình minh vừa mượtmà, óng ả, vừa đằm thắm, thơ mộng. Cảnh vật đượctái hiện bằng tình yêu, bằng hoài niệm với xứ Huếcủa nhà tập củng cốCâu hỏi trắc nghiệmCâu 1 Tiếng nói nội tâm trong câu hỏi “Sao anh không về chơithôn Vĩ” không mang sắc thái cảm xúc nào?Mời mọcTrách mócBăn khoănKhát khaoBài tập củng cốCâu hỏi trắc nghiệmCâu 2 Câu thơ nào trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn MặcTử gợi vẻ đẹp nên thơ, hài hoà giữa thiên nhiên và con người thôn Vĩ?Nhìn nắng hàng cau nắng mới trúc che ngang mặt chữ điềnVườn ai mướt quá xanh như ngọcSao anh không về chơi thôn Vĩ?Bài tập củng cốCâu hỏi trắc nghiệmCâu 3 Những hình ảnh sử dụng trong khổ thơ có đặc điểmGiản dị, gần gũi, đậm chất dân sức gợi, mang màu sắc tượng trưngTrang trọng, hàm súc, mang đậm màu sắc cổ điểnTáo bạo, hiện đại, tạo cảm giác mạnhĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc TửII. Đọc hiểu văn bản2. Khổ 2Thảo luận nhómNhóm 1Nhóm 2Nhóm 3Cảnh xứ Huế trongbuổi chiều được táihiện như thế nào?Nhận xét về bứctranh thiên nhiên?Cảm nhận về bứctranh thiên nhiêntrong đêm trăng?Bức tranh ấy đemđến cho em ấntượng gì về xứHuế?Đằng sau bức tranhthiên nhiên xứ Huếtrong khổ 2, emcảm nhận gì về tâmtrạng của nhà thơ?Đây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc TửII. Đọc hiểu văn bảnKhổ 2- Cảnh thiên nhiên trong buổichiều~ Gió >< mây chia lìa, xa cách~ Dòng nước buồn thiu Ảm đạm, nhuốm màu thiên nhiên trong đêm trăng~ Sông trăng lộng lẫy, thơ mộng~ Thuyền ai Ngỡ ngàng, bângkhuâng. Thơ mộng, lãng trạng ~ Nỗi buồn hiu hắt, mang dự cảm hạnh phúc chia lìa.~ Khắc khoải, lo âu, hồ nghi, thất vọng
chuyên đề hàn mặc tử